(Ngô Tất Tố dịch)
Bình Ngô đại
cáo (1427) là bài cáo của Nguyễn Trãi viết thay lời Bình Định vương Lê Lợi để
tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt.
Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân
nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế
khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép
xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem
vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật,
bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân
dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả
giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc
thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng,
đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
Nay xây
nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những
núi phu phen,
Tan tác cả
nghề canh cửi.
Độc ác
thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn
thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời
đất dung tha,
Ai bảo thần
nhân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam sơn
dấy nghĩa
Chốn hoang
dã nương mình
Ngẫm thù lớn
há đội trời chung
Căm giặc nước
thề không cùng sống
Đau lòng nhức
óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm
gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì
giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước
đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn
trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn
khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ
nghĩa dấy lên,
Chính lúc
quân thù đang mạnh.
Lại ngặt
vì:
Tuấn kiệt
như sao buổi sớm,
Nhân tài
như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu
thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác
hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu
nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu
hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người,
người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta
phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận
quân thù ngang dọc,
Phần vì lo
vận nước khó khăn,
Khi Linh
Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi
Huyện quân không một đội.
Trời thử
lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí
khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn
cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một
lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất
kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân
mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại
nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí
nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng
sấm vang chớp giật,
Miền Trà
Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã
hăng
Quân thanh
càng mạnh.
Trần Trí,
Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An,
Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng
đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh
tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều
máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tuỵ Động
thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm
quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ
thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông
gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu
trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi
bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh
mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng
biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn
đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến
một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công
danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi
con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút
nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi
tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy
tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã
điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai
tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười
tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai
mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm
lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm
tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta
đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc
quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm
quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa
tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén
người hùng hổ
Bề tôi chọn
kẻ vuốt nanh
Gươm mài
đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước,
nước sông phải cạn.
Đánh một trận,
sạch không kình ngạc
Đánh hai trận
tan tác chim muông.
Cơn gió to
trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng
sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi
Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư
Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang,
Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương
Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm
thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm
thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở
Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng
thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh
Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan
Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh
hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc
các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc
bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng
giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ,
Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương
Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham
sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn
quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những
mưu kế kì diệu
Cũng là
chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ
đây vững bền
Giang sơn từ
đây đổi mới
Càn khôn bĩ
rồi lại thái
Nhật nguyệt
hối rồi lại minh
Ngàn năm vết
nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền
thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ
trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ
nhung y chiến thắng,
Nên công
oanh liệt ngàn năm
Bốn phương
biển cả thanh bình,
Ban chiếu
duy tân khắp chốn.
Xa gần bá
cáo,
Ai nấy đều
hay.
Chú thích:
1. Triệu,
Đinh, Lý, Trần Theo quan điểm ngày trước, nhà Triệu là triều đại chính thống của
Việt Nam. Có sách in là "Đinh, Lê, Lý, Trần", bỏ nhà Triệu đi, không
rõ là do dịch giả hay biên tập viên, nhưng như vậy không tôn trọng nguyên tác.
2. Hai câu
này Nguyễn Trãi nhầm, thực ra Toa Đô bị chém chết, còn Ô Mã Nhi bị bắt sống.
Cũng có sách in là:
Cửa Hàm Tử
giết tươi Toa Đô,
Sông Bạch Đằng
bắt sống Ô Mã.
Như vậy
cũng không tôn trọng nguyên tác.