2018-02-20

bếp lửa - Bằng Việt

bếp lửa - Bằng Việt

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm 
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm 
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa! 

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói 
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi, 
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy, 
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu 
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! 

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa 
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa 
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà? 
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế. 
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế, 
Mẹ cùng cha công tác bận không về, 
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe, 
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học, 
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc, 
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà, 
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? 

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi 
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi 
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh 
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh: 
"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, 
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ, 
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!". 

Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen, 
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn, 
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng... 

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa 
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ 
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm 
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, 
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi, 
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui, 
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ... 
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa! 

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu, 
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, 
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: 
Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...

Kiev, 1963

Nguồn: Bếp lửa, NXB Văn học, 2005