Em gái tôi tên là Kiều Phương, nhưng tôi quen gọi nó là Mèo
vì mặt nó hay bị chính nó bôi bẩn. Nó vui vẻ chấp nhận cái tên tôi tặng cho và
hơn thế, còn dùng để
xưng hô với bạn bè. Mèo rất hay lục lọi các đồ vật với sự thích thú đến khó chịu.
– Này, em không để chúng nó yên được à?
Nó vênh mặt:
– Mèo mà lại! Em không phá là được…
Một hôm, tôi bắt gặp nó nhào một thứ bột gì đó đen sì, trông
rất sợ, thỉnh thoảng lại bôi bôi ra cổ tay. Trời ạ, thì ra nó chế thuốc vẽ. Thảo
nào các đít xoong chảo bị nó cạo trắng cả. Tôi quyết định bí mật theo dõi em
gái tôi. Sau khi có vẻ đã hài lòng, nó lôi trong túi ra bốn
lọ nhỏ, cái màu đỏ, cái màu vàng, cái màu xanh lục… đều do nó tự chế. Nó đưa mắt
canh chừng rồi lại nhét tất cả vào túi sau khi cho màu đen nhọ nồi vào một cái lọ còn bỏ
không. Xong, nó vui vẻ chạy đi làm những việc bố mẹ tôi phân công, vừa làm vừa
hát, có vẻ vui lắm.
Nhưng mọi bí mật của Mèo cuối cùng cũng bại lộ. Hôm đó chú
Tiến Lê – họa sĩ, bạn thân của bố tôi – đưa theo bé Quỳnh đến chơi. Vớ được bạn
gái, nó mừng quýnh lên. Hai đứa lôi nhau ra vườn. Tại đây, Mèo đưa toàn bộ những
bức tranh nó vẽ giấu ra cho bé Quỳnh xem. Chỉ
thấy bé Quỳnh thỉnh thoảng lại reo lên khe khẽ. Lát sau, bé Quỳnh chạy vào thì
thầm gì đó với chú Tiến Lê khiến chú phải xin phép bố tôi theo bé Quỳnh ra vườn.
Lúc đó, tôi đang mải mê với chiếc diều nên không biết có chuyện gì xảy ra. Chỉ
thấy từ ngoài vườn trở vào, mặt chú Tiến Lê rạng rỡ lắm:
– Anh chị có phúc lớn rồi. Anh có biết con gái anh là một
thiên tài hội họa không?
Chú trải sáu bức tranh do Mèo vẽ ra trước mặt bố tôi. Đến lượt
bố tôi ngây người ra như không tin vào mắt mình.
– Con gái tôi vẽ đây ư? Chả lẻ lại đúng là nó, cái con Mèo
hay lục lọi ấy!
Và ông không kìm được, ôm thốc Mèo lên:
– Ôi, con đã cho bố một bất ngờ quá lớn.
Mẹ tôi vừa về, kịp nghe và kịp chứng kiến tất cả, cũng không
kiềm được xúc động. Theo chú Tiến Lê thì những bức tranh của Mèo rất độc đáo,
có thể đem đóng khung
treo ở bất cứ phòng tranh nào. Bố mẹ tôi rất tin vào thẩm định của chú Tiến Lê. Chú
còn hứa sẽ giúp em gái tôi để nó phát huy tài năng.
Kể từ hôm đó, mặc dù mọi chuyện vẫn như cũ trong căn nhà của
chúng tôi, nhưng tôi luôn luôn cảm thấy mình bất tài nên bị đẩy ra ngoài. Những
lúc ngồi bên bàn học, tôi chỉ muốn gục xuống khóc.
Tôi chẳng tìm thấy ở tôi một năng khiếu gì. Và không hiểu vì
sao tôi không thể than với Mèo như trước kia được nữa. Chỉ cần một lỗi nhỏ ở nó
là tôi gắt um lên.
Tôi quyết định làm một việc mà tôi vẫn coi khinh: xem trộm
những bức tranh của Mèo. Dường như mọi thứ có trong ngôi nhà của chúng tôi đều
được nó đưa vào tranh. Mặc dù nó vẽ bằng những nét to tướng, nhưng ngay cả cái
bát múc cám lợn, sứt một miếng cũng trở nên ngộ nghĩnh. Con mèo vằn vào tranh, to hơn cả con hổ nhưng nét mặt
lại vô cùng dễ mến. Có cảm tưởng nó biết mọi việc chúng tôi làm và lơ đi vì
không chấp trẻ em.
Gấp lại những bức tranh của Mèo, tôi lén trút ra một tiếng
thở dài…
Bố mẹ tôi hào hứng mua sắm cho em gái tôi tất cả những gì cần
cho công việc vẽ. Chú Tiến Lê tặng “đồng nghiệp” hẳn một hộp màu ngoại xịn. Chỉ
có mặt Mèo là không thay đổi. Lúc nào cũng lem nhem, bị tôi quát thì xịu xuống,
miệng dẩu ra. Tôi từng thấy nó rất ngộ với vẻ mặt ấy. Nhưng đấy là trước kia.
Bây giờ tôi cảm thấy nó như chọc tức tôi…
Rồi cả nhà – trừ tôi – vui như tết khi bé Phương, qua giới thiệu của chú Tiến
Lê, được mời tham gia trại thi vẽ quốc tế. Luật của cuộc thi là thí sinh phải vẽ
một bức tranh theo đề tài tự chọn ngay trước mắt ban giám khảo. Trước khi đi
thi, nó có vẻ cứ hay xét nét tôi, khiến tôi rất khó chịu. Nó nhập tâm lời dạy của
chú Tiến Lê: “Cháu hãy vẽ cái gì thân thuộc nhất với cháu”.
Một tuần sau em gái tôi trở về trong vòng tay dang sẵn của cả
bố và mẹ tôi: Bức tranh của nó được trao giải nhất. Nó lao vào ôm cổ tôi, nhưng
tôi viện cớ đang dở việc đẩy nhẹ nó ra. Tuy thế, nó vẫn kịp thì thầm vào tai
tôi: “Em muốn cả anh cùng đi nhận giải”.
Trong gian phòng lớn tràn ngập ánh sáng, những bức tranh của
thí sinh treo kín bốn bức tường. Bố, mẹ tôi kéo tôi chen qua đám đông để xem bức
tranh của Kiều Phương đã được đóng khung, lồng kính. Trong tranh, một chú bé
đang ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi bầu trời trong xanh. Mặt chú bé như tỏa ra
một thứ ánh sang rất lạ. Toát lên từ cặp mắt, tư thế ngồi của chú không chỉ sự
suy tư mà còn rất mơ mộng nữa. Mẹ hồi hộp thì thầm vào tai tôi:
– Con có nhận ra con không?
Tôi giật sững người. Chẳng hiểu sao tôi phải bám chặt lấy tay mẹ. Thọat tiên là sự ngỡ
ngàng, rối đến hãnh diện, sau đó là xấu hổ. Dưới mắt em tôi, tôi hoàn hảo đến
thế kia ư? Tôi nhìn như thôi miên
vào dòng chữ đề trên bức tranh: “Anh trai tôi”. Vậy mà dưới mắt tôi thì…
– Con đã nhận ra con chưa? – Mẹ vẫn hồi hộp.
Tôi không trả lời mẹ vì tôi muốn khóc quá. Bởi vì nếu nói được với mẹ, tôi sẽ
nói rằng: “Không phải con đâu. Đấy là tâm hồn và lòng nhân hậu của em con đấy”.
(Tạ Duy Anh(*), in trong Con dế ma, NXB Kim Đồng, Hà Nội,
1999)