2015-09-16
rừng xà nu - Nguyên ngọc
RỪNG XÀ NU
Tác giả: Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc)
NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Văn Báu.
Sinh năm: 1932
Nơi sinh: Thăng Bình - Quảng Nam.
Bút danh: Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim.
Thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký.
Các tác phẩm:
· Đất nước đứng lên (1956)
· Mạch nước ngầm (1960)
· Rẻo cao (1961)
· Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969)
· Đất Quảng (1971 - 1974)
Giải thưởng văn chương:
· Giải nhất về tiểu thuyết trong Giải thưởng văn học 1954-55 của Hội Văn nghệ
Việt Nam cho tiểu thuyết “Đất nước đứng lên”.
· Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai
lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và
trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu1 cạnh con nước lớn. Cả
rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt
đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa
ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và
đặc quện vào thành từng cục máu lớn.
Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới
ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao
thẳng lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng
lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống
từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra. Có
những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. ở
những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được,
cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên
được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao lông
vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành
như những vết thương trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh,
thay thế những cây đã ngã... Cứ thế, hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn
của mình ra, che chở cho làng...
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác
ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời...
*
Ba năm đi lực lượng, bữa nay Tnú mới có dịp ghé về thăm làng. Thằng bé Heng
gặp ở con nước lớn dẫn anh về. Ngày anh ra đi nó mới đứng đến ngang bụng anh,
chưa biết mang gùi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Bây giờ
nó mang một khẩu súng trường Mát, dẫn anh đi. Vẫn là con đường cũ, qua cái nà
bắp nay đã trồng sắn và cây pom chu2 vắt lên hai cái dốc đứng sững đã được cắt ra
từng bậc, chui qua một rừng lách rậm ngày xưa thì vô số vắt lá, rồi đến cái làng
nhỏ của anh. Nhưng nếu không có người dẫn, chắc chắn Tnú không dám đi một
mình. Đường cũ nay chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút lại gặp một
dàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chắn gãy đôi
ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên dàn, sắc lạnh. Thằng bé Heng lớn
lên cũng ít nói như những người dân làng Xô Man này. Nó đội một cái mũ sụp xin
được của anh Giải phóng quân nào đó, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn
đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một người lính thực sự. Thỉnh thoảng,
tới chỗ ác chiến điểm, nó quay lại nhìn Tnú, cười một cái rất liếng như bảo:
- Coi được chứ, anh Tnú?
Mắt nó lóe lên một tia sáng nhỏ, lộ ý khoe khoang rõ rệt. Tnú cũng cười, gật
đầu. Hiểu ý nhau, hai người lại cặm cụi đi.
Tới con suối nhỏ có một khúc nứa dẫn nước từ trong lòng đá ra, thằng Heng
dừng lại, bảo:
- Rửa chân đi. Nhưng đừng uống nước lạnh, về chị Dít phê bình đó.
Tnú cười:
- Chị Dít là vệ sinh viên à?
Heng cãi lại:
- Không, chị Dít là bí thư chi bộ chớ. Một người làm hai việc, làm luôn cả chính
trị viên xã đội nữa.
À ra vậy. Tnú không uống nước, anh bỏ mũ, cởi mấy khuy áo trên ngực, rồi
khom lưng xuống, ngửa hai bàn tay vả nước lên mặt, lên đầu. Nước mát lạnh đến
tê người. Máu trong đầu anh phản ứng, giật giật ở hai má. Tnú vẫn nghĩ: “À ra
vậy! Dít đã thành bí thư chi bộ xã”. Thực tình, anh không hình dung được Dít bây
giờ ra thế nào. Dít là em gái Mai. Ngày Mai mất và Tnú ra đi, nó còn là một đứa
bé không có áo mặc, đêm lạnh nó không ngủ, đốt lửa ngồi tới gà gáy rồi đi giã gạo
thay chị. Nó gằn đủ ba mươi lon gạo trắng, đổ ruột nghé cho Tnú mang đi. Nó lầm
lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh, trong khi mọi người, cả cụ già Mết, đều khóc vì
cái chết của Mai...
Heng giục:
- Tắm nước lâu lạnh, cảm sốt đó. Đi chớ, sắp tới rồi!
Tnú không lau khô đầu tóc. Anh cầm mũ đi theo Heng.
Đến chỗ sắp bước vào rừng lách, có một cây lớn ngã ngang đường phải leo qua.
Cạnh đó du kích đã đào một cái công sự dài. Hồi Tnú ra đi cây này chưa ngã. Tnú
dừng lại. Chính ở đây anh đã gặp Mai lần đầu. Tất nhiên không phải là lần đầu
hẳn, cả hai đều là người làng, họ biết nhau từ ngày mẹ còn địu trên lưng. Nhưng
chính ở đây lần đầu tiên sau khi ở tù về Tnú gặp lại Mai, thấy Mai đã lớn anh
không ngờ, và Mai thì cầm hai bàn tay anh lúc ấy còn lành lặn, ứa nước mắt khóc,
không phải như một đứa trẻ nữa mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa
thương yêu. Kỷ niệm đó cắt vào lòng anh một nhát dao nứa. Anh trợn mắt lên, như
những lúc bị tra tấn đau quá trước đây. Thằng bé Heng không biết câu chuyện đó.
Leo lên thân cây rồi nó quay lại nhìn Tnú, hất hàm ra hiệu:
- Đi chớ, anh Tnú! Lâu ngày về, chân không leo nổi cái dốc nữa à?
Tnú trèo qua thân cây. Con đường đổ xuống dốc lỗ chỗ hố chông. Mặt Tnú đanh
lại. Anh lẳng lặng đi cho đến khi anh nhận ra tiếng chày dồn dập của làng anh.
Bây giờ anh mới chợt hiểu ra rằng hình như cái mà anh nhớ nhất ở làng, nỗi nhớ
day dứt lòng anh suốt ba năm nay chính là tiếng chày đó, tiếng chày chuyên cần,
rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xưa, của
Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi. Tnú cố giữ bình
tĩnh nhưng ngực anh vẫn đập liên hồi, chân cứ vấp mãi mấy cái rễ cây vả chỗ quẹo
vào làng. Anh vượt đi lên trước Heng. Heng chạy theo anh, vừa gọi:
- Chông đấy, có chông đấy, không phải như trước đâu, đi theo tui chớ!...
Đến làng, mặt trời chưa tắt. Thằng bé Heng tháo cây súng chống xuống đất, gọi
to:
- Người già ơi, có khách đấy!
Ở mỗi cửa nhà ló ra bốn, năm cái đầu ngơ ngác. Những cặp mắt tròn xoe, rồi
những tiếng ré lên và những tiếng reo:
- Giàng ơi! ... Tnú!... Anh Tnú, thằng Tnú! Nó về rồi,... mày về rồi thật đó, hả
Tnú!
Có những người không kịp bước xuống thang, nhảy phốc một cái từ trên sàn nhà
xuống đất. Những bà già - trời ơi bà cụ Leng vẫn còn sống kia à! - vừa lụm cụm
bò xuống thang, từng bậc, từng bậc, vừa chửi:
- Con cháu! Ma bắt mày, thằng quỷ!... Mày không chờ tau chết rồi hãy về một
thể có được không!
Ở các nhà vẫn còn những cái đầu lấp ló: các cô gái không ra, chỉ ngồi bên trong
cười rúc rích. Cả làng đã vây quanh Tnú. Anh nhận ra tất cả. Ông già Tâng này,
vẫn chòm râu quai nón đó, chỉ thêm cái ống điếu dài gò bằng sắt máy bay trực
thăng, anh Pre này, trông già hẳn đi, chị Blom này, tóc đã lốm đốm bạc, bà già
Prôi này, đã rụng hết cả hai hàm răng rồi... Một lũ trẻ lau nhau, đứa nào đứa nấy
mặt mày lem luốc khói xà nu. Còn ông già Mết đâu rồi! Tnú định hỏi:
- Cụ Mết đâu?
Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một cái kìm sắt. Anh quay lại:
cụ Mết! Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen
bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng. Ông ở
trần, ngực căng như một cây xà nu lớn. Ông cụ đẩy Tnú ra một bước, nhìn anh từ
đầu đến chân, rồi phá lên cười:
- Hà hà!... Đeo cả tôm-xông về à!... Anh lực lượng!... Được!
Tnú hiểu ý ông cụ. Ông không bao giờ khen “Tốt! Giỏi!”. Những khi vừa ý nhất,
ông chỉ nói “Được!”.
Lúc ông cụ Mết nói, mọi người đều im bặt. Ông nói như ra lệnh. Sáu mươi tuổi rồi
mà tiếng nói vẫn ồ ồ, dội vang trong lồng ngực.
- Cấp chỉ huy cho mày về mấy đêm?... Một đêm à, được! Cho một đêm, về một
đêm, cho hai đêm, về hai đêm, phải chấp hành cho đúng. Đêm nay mày ở nhà tau.
Không ai phản đối. Ông cụ lại nói:
- Thôi ai về nhà nấy, trời hết sáng rồi, làm lửa nấu cơm được rồi đó. Lũ con nít
đi tắm nước cho sạch, rửa hết khói xà nu đi, đừng có vẽ mặt như văn công đóng
kịch nữa, đứa nào không sạch thì phê bình, nghe chưa?... Thằng Tnú cũng đi rửa
chân đi. Mày có nhớ cái máng nước ở chỗ nào không?... Nhớ à, được! Tưởng quên
rồi thì tau đuổi ra rừng, không cho ở làng nữa đâu!
Nói vậy nhưng ông cụ vẫn bảo Tnú đưa ba lô và tôm-xông cho ông, rồi thân
hành dẫn anh ra tới máng nước đầu làng. Lũ trẻ con ùa theo rối rít. Có mấy cô gái
Tnú nhớ mặt nhưng không kịp nhớ ra tên, đang lấy nước vào những ống bương
dài, vác ống đứng tránh ra một bên, nhường vòi nước cho anh. Vừa rửa sạch ở
suối nhỏ rồi, nhưng Tnú vẫn rửa lại. Anh cởi áo ra để cho vòi nước lạnh ngắt của
làng mình giội lên đầu, lên lưng, lên ngực như những ngày xưa, cũng chính ở vòi
nước này đây, trên tấm đá bằng đã vẹt hẳn một bên vì ông cụ Mết vẫn ra mài dao
ở đây.
Ông cụ Mết đứng lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú. Những vết thương xưa vẫn
còn ngang dọc trên tấm lưng ấy, đã thành sẹo tím. Từ đôi mắt ông cụ lăn ra hai
giọt nước mắt lớn, ông lén trở tay chùi một cách vội vã. Tnú không kịp nhìn thấy.
Còn lũ trẻ thì ngơ ngác sửng sốt...
Từ các nhà đã quyện lên những sợi khói tím thẫm.
---------------------------------------------------------
(1) Xà nu: một loại cây tương tự như cây thông mọc rất nhiều ở Công Tum, nhựa
và gỗ xà nu đều rất quý.
(2) Pom chu: có nơi gọi là cây chuối nước hay giong riềng, củ có nhiều bột.
Bữa cơm tối ở nhà cụ Mết, ngoài món canh tàu môn bạc hà nấu lạt trong ống nứa,
còn có thêm mấy con cá chua. Đó là món đặc biệt cụ Mết đãi người đi xa về. Tnú
mở ống lương khô, xúc cho ông cụ một muỗng muối. Ông cụ bảo:
- Tau cũng còn nửa lon muối của huyện thưởng cho con Dít kỳ ngày nó đi đại
hội chiến sỹ thi đua, về chia đều cho mỗi bếp một phần. Nhưng cái đó để dành cho
người đau. Còn cái này mày cho thì tau ăn.
Ông cụ không nêm muối vào canh. Ông chia đều cho mỗi người mấy hạt, họ ăn
sống từng hạt, ngậm rất lâu trong miệng để nghe chất mặn đậm đà tan dần. Cơm
gạo trắng ghế rất nhiều củ pom chu. Ông cụ bưng chén cơm, nói như thanh minh:
- Năm nay làng không đói. Gạo đủ ăn tới mùa suốt. Nhưng phải để dành, dự trữ
mỗi bếp cho được ba năm. Mày đi cách mạng, người chỉ huy cũng dạy mày rồi,
đánh thằng Mỹ phải đánh dài.
Rồi đột ngột, ông cụ hỏi:
- Mười ngón tay mày vẫn cụt thế à? Không mọc ra được nữa à!... Ừ...
Ông cụ đặt chén cơm xuống, giận dữ:
- Nhưng lành hết rồi chứ? ... Được! Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được...
Mày có đi qua chỗ rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sống đấy. Không
có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết
hết rừng xà nu này!... Kìa, ăn đi chớ! Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng
núi này đấy, con ạ...
... Cơm nước xong, từ phía nhà ưng3, có ai đấy đánh lên một hồi mõ dài lại ba
tiếng. Dân làng lũ lượt kéo tới nhà cụ Mết. Các cô gái dụi tắt đuốc ở cầu thang
trước khi bước vào nhà. Cũng có người, các bà cụ, cầm cả cây đuốc còn cháy rực
đi thẳng vào, soi lên mặt Tnú, nhìn đi nhìn lại thật kỹ rồi ném bó đuốc vào bếp,
lửa bốc lên, cháy giần giật. Các ông cụ chưa bước lên cầu thang đã nói oang
oang:
- Thằng Tnú đâu rồi? Cho nó ăn no rồi chớ, ông Mết?
Có tiếng một bà già:
- Bọn đàn ông này, xê ra một chút cho con Dít nó ngồi với chớ. Dít ơi, ngồi đây
con!
Tnú ngẩng nhìn lên, Dít đã ngồi sụp xuống trước mặt anh, hai chân xếp về một
bên, đưa tay kéo tấm váy che kín cả gót chân. Tnú bất chợt nghe một luồng lạnh
rân rân ở mặt và ở ngực. Mai! Trước mặt anh là Mai đấy! Anh không ngờ Dít lớn
lên lại giống Mai đến thế. Cái mũi hơi tròn của Dít ngày trước nay đã nhỏ và thẳng
lại, hai hàng lông mày rậm đến che tối cả đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt. Dít
nhìn Tnú bằng đôi mắt ấy rất lâu, trong khi bốn, năm đứa bé, đứa nào cũng tranh
chỗ ngồi gần chị Dít. Rồi chị hỏi Tnú, giọng hơi lạnh lùng:
- Đồng chí về có giấy không?
Tnú không hiểu:
- Giấy gì?
- Giấy cấp trên cho nghỉ phép đó. Không có giấy, trốn về thì không được. Ủy
ban phải bắt thôi.
Tnú cười ồ. Anh định đùa, bảo nhớ làng quá trốn về thăm một bữa, nhưng nhìn
đôi mắt nghiêm khắc của Dít và nghe cái im lặng chờ đợi chung quanh, anh mở túi
áo, lấy một mảnh giấy nhỏ đưa cho chị.
- Báo cáo đồng chí chính trị viên xã đội...
Dít cầm lấy tờ giấy, soi lên ánh lửa. Hàng chục cái đầu chụm lại, mấy đứa bé lắp
bắp đánh vần. Dít đọc rất lâu, đọc đi đọc lại đến ba lần. Cụ Mết hỏi:
- Đúng chớ? Nó có phép chớ?
Dít đưa trả lại giấy cho Tnú. Bây giờ chị mới cười:
- Đúng rồi, có chữ ký của người chỉ huy. Sao anh về có một đêm thôi?
Rồi chị tự trả lời:
- Thôi cũng được. Về một đêm cho làng thấy mặt là được rồi. Bọn em miệng
đứa nào cũng nhắc anh mãi.
Tiếng cười nói im đi một lúc bây giờ lại rộn lên, chật cả căn nhà nhỏ.
- Có chữ ký người chỉ huy đó nghe!
- Tốt lắm rồi!
- Một đêm thôi, mai lại đi rồi, ít quá, tiếc quá!
Tiếng ông cụ Mết ồ ồ át tất cả:
- Hà hà... được!
Ông cụ đẩy hai, ba đứa bé ra, bước tới, ngồi xuống trước bếp lửa, cạnh Tnú. Biết
ông cụ sắp nói, mọi người im lặng. Ông cụ gõ ống điếu lên đầu ông táo, bẻ một
que nứa nhỏ ở sạp, cẩn thận soi cho hết tàn thuốc trong ống điếu,rồi ngẩng lên,
nhìn quanh một lượt. Mọi người đã ngồi đâu vào đấy và lắng chờ. Ông cụ bắt đầu
nói:
- Ông già bà già thì biết rồi. Thanh niên có đứa biết, có đứa chưa rõ. Còn lũ con
nít thì chưa biết - Ông cụ trừng mắt nhìn lũ trẻ, chúng nó cảm thấy cái nghiêm
trang trong lời ông già, đứa nào đứa nấy ngồi im thin thít, mắt dán vào miệng ông
cụ - ... Tnú, anh Tnú của chúng mày về rồi đó. Đó, nó đấy, nó đi Giải phóng quân
đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm, cấp trên cho về một đêm, có chữ ký
người chỉ huy, chị bí thư coi giấy rồi. Nó đấy! Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó
mất sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước
suối làng ta. Đêm nay, tau kể chuyện nó cho làng nghe để mừng nó về thăm làng.
Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà
nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe...
Tất cả đều im lặng. Chỉ có tiếng vòi nước đầu làng lanh tanh trộn lẫn tiếng mưa