2015-09-16

rừng xà nu - Nguyên ngọc


RỪNG XÀ NU

Tác giả: Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc)
NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC
Tiểu sử:
Tên thật: Nguyễn Văn Báu.
Sinh năm: 1932
Nơi sinh: Thăng Bình - Quảng Nam.
Bút danh: Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim.
Thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký.
Các tác phẩm:
· Đất nước đứng lên (1956)
· Mạch nước ngầm (1960)
· Rẻo cao (1961)
· Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969)
· Đất Quảng (1971 - 1974)
Giải thưởng văn chương:
· Giải nhất về tiểu thuyết trong Giải thưởng văn học 1954-55 của Hội Văn nghệ
Việt Nam cho tiểu thuyết “Đất nước đứng lên”.
· Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.



Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai
lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và
trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu1 cạnh con nước lớn. Cả
rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt
đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa
ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và
đặc quện vào thành từng cục máu lớn.
Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới
ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao
thẳng lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng
lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống
từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra. Có
những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. ở
những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được,
cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên
được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao lông
vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành
như những vết thương trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh,
thay thế những cây đã ngã... Cứ thế, hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn
của mình ra, che chở cho làng...
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác
ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời...
*
Ba năm đi lực lượng, bữa nay Tnú mới có dịp ghé về thăm làng. Thằng bé Heng
gặp ở con nước lớn dẫn anh về. Ngày anh ra đi nó mới đứng đến ngang bụng anh,
chưa biết mang gùi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Bây giờ
nó mang một khẩu súng trường Mát, dẫn anh đi. Vẫn là con đường cũ, qua cái nà
bắp nay đã trồng sắn và cây pom chu2 vắt lên hai cái dốc đứng sững đã được cắt ra
từng bậc, chui qua một rừng lách rậm ngày xưa thì vô số vắt lá, rồi đến cái làng
nhỏ của anh. Nhưng nếu không có người dẫn, chắc chắn Tnú không dám đi một
mình. Đường cũ nay chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút lại gặp một
dàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chắn gãy đôi
ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên dàn, sắc lạnh. Thằng bé Heng lớn
lên cũng ít nói như những người dân làng Xô Man này. Nó đội một cái mũ sụp xin
được của anh Giải phóng quân nào đó, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn
đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một người lính thực sự. Thỉnh thoảng,
tới chỗ ác chiến điểm, nó quay lại nhìn Tnú, cười một cái rất liếng như bảo:
- Coi được chứ, anh Tnú?
Mắt nó lóe lên một tia sáng nhỏ, lộ ý khoe khoang rõ rệt. Tnú cũng cười, gật
đầu. Hiểu ý nhau, hai người lại cặm cụi đi.
Tới con suối nhỏ có một khúc nứa dẫn nước từ trong lòng đá ra, thằng Heng
dừng lại, bảo:
- Rửa chân đi. Nhưng đừng uống nước lạnh, về chị Dít phê bình đó.
Tnú cười:
- Chị Dít là vệ sinh viên à?
Heng cãi lại:
- Không, chị Dít là bí thư chi bộ chớ. Một người làm hai việc, làm luôn cả chính
trị viên xã đội nữa.
À ra vậy. Tnú không uống nước, anh bỏ mũ, cởi mấy khuy áo trên ngực, rồi
khom lưng xuống, ngửa hai bàn tay vả nước lên mặt, lên đầu. Nước mát lạnh đến
tê người. Máu trong đầu anh phản ứng, giật giật ở hai má. Tnú vẫn nghĩ: “À ra
vậy! Dít đã thành bí thư chi bộ xã”. Thực tình, anh không hình dung được Dít bây
giờ ra thế nào. Dít là em gái Mai. Ngày Mai mất và Tnú ra đi, nó còn là một đứa
bé không có áo mặc, đêm lạnh nó không ngủ, đốt lửa ngồi tới gà gáy rồi đi giã gạo
thay chị. Nó gằn đủ ba mươi lon gạo trắng, đổ ruột nghé cho Tnú mang đi. Nó lầm
lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh, trong khi mọi người, cả cụ già Mết, đều khóc vì
cái chết của Mai...
Heng giục:
- Tắm nước lâu lạnh, cảm sốt đó. Đi chớ, sắp tới rồi!
Tnú không lau khô đầu tóc. Anh cầm mũ đi theo Heng.
Đến chỗ sắp bước vào rừng lách, có một cây lớn ngã ngang đường phải leo qua.
Cạnh đó du kích đã đào một cái công sự dài. Hồi Tnú ra đi cây này chưa ngã. Tnú
dừng lại. Chính ở đây anh đã gặp Mai lần đầu. Tất nhiên không phải là lần đầu
hẳn, cả hai đều là người làng, họ biết nhau từ ngày mẹ còn địu trên lưng. Nhưng
chính ở đây lần đầu tiên sau khi ở tù về Tnú gặp lại Mai, thấy Mai đã lớn anh
không ngờ, và Mai thì cầm hai bàn tay anh lúc ấy còn lành lặn, ứa nước mắt khóc,
không phải như một đứa trẻ nữa mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa
thương yêu. Kỷ niệm đó cắt vào lòng anh một nhát dao nứa. Anh trợn mắt lên, như
những lúc bị tra tấn đau quá trước đây. Thằng bé Heng không biết câu chuyện đó.
Leo lên thân cây rồi nó quay lại nhìn Tnú, hất hàm ra hiệu:
- Đi chớ, anh Tnú! Lâu ngày về, chân không leo nổi cái dốc nữa à?
Tnú trèo qua thân cây. Con đường đổ xuống dốc lỗ chỗ hố chông. Mặt Tnú đanh
lại. Anh lẳng lặng đi cho đến khi anh nhận ra tiếng chày dồn dập của làng anh.
Bây giờ anh mới chợt hiểu ra rằng hình như cái mà anh nhớ nhất ở làng, nỗi nhớ
day dứt lòng anh suốt ba năm nay chính là tiếng chày đó, tiếng chày chuyên cần,
rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xưa, của
Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi. Tnú cố giữ bình
tĩnh nhưng ngực anh vẫn đập liên hồi, chân cứ vấp mãi mấy cái rễ cây vả chỗ quẹo
vào làng. Anh vượt đi lên trước Heng. Heng chạy theo anh, vừa gọi:
- Chông đấy, có chông đấy, không phải như trước đâu, đi theo tui chớ!...
Đến làng, mặt trời chưa tắt. Thằng bé Heng tháo cây súng chống xuống đất, gọi
to:
- Người già ơi, có khách đấy!
Ở mỗi cửa nhà ló ra bốn, năm cái đầu ngơ ngác. Những cặp mắt tròn xoe, rồi
những tiếng ré lên và những tiếng reo:
- Giàng ơi! ... Tnú!... Anh Tnú, thằng Tnú! Nó về rồi,... mày về rồi thật đó, hả
Tnú!
Có những người không kịp bước xuống thang, nhảy phốc một cái từ trên sàn nhà
xuống đất. Những bà già - trời ơi bà cụ Leng vẫn còn sống kia à! - vừa lụm cụm
bò xuống thang, từng bậc, từng bậc, vừa chửi:
- Con cháu! Ma bắt mày, thằng quỷ!... Mày không chờ tau chết rồi hãy về một
thể có được không!
Ở các nhà vẫn còn những cái đầu lấp ló: các cô gái không ra, chỉ ngồi bên trong
cười rúc rích. Cả làng đã vây quanh Tnú. Anh nhận ra tất cả. Ông già Tâng này,
vẫn chòm râu quai nón đó, chỉ thêm cái ống điếu dài gò bằng sắt máy bay trực
thăng, anh Pre này, trông già hẳn đi, chị Blom này, tóc đã lốm đốm bạc, bà già
Prôi này, đã rụng hết cả hai hàm răng rồi... Một lũ trẻ lau nhau, đứa nào đứa nấy
mặt mày lem luốc khói xà nu. Còn ông già Mết đâu rồi! Tnú định hỏi:
- Cụ Mết đâu?
Một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một cái kìm sắt. Anh quay lại:
cụ Mết! Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen
bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng. Ông ở
trần, ngực căng như một cây xà nu lớn. Ông cụ đẩy Tnú ra một bước, nhìn anh từ
đầu đến chân, rồi phá lên cười:
- Hà hà!... Đeo cả tôm-xông về à!... Anh lực lượng!... Được!
Tnú hiểu ý ông cụ. Ông không bao giờ khen “Tốt! Giỏi!”. Những khi vừa ý nhất,
ông chỉ nói “Được!”.
Lúc ông cụ Mết nói, mọi người đều im bặt. Ông nói như ra lệnh. Sáu mươi tuổi rồi
mà tiếng nói vẫn ồ ồ, dội vang trong lồng ngực.
- Cấp chỉ huy cho mày về mấy đêm?... Một đêm à, được! Cho một đêm, về một
đêm, cho hai đêm, về hai đêm, phải chấp hành cho đúng. Đêm nay mày ở nhà tau.
Không ai phản đối. Ông cụ lại nói:
- Thôi ai về nhà nấy, trời hết sáng rồi, làm lửa nấu cơm được rồi đó. Lũ con nít
đi tắm nước cho sạch, rửa hết khói xà nu đi, đừng có vẽ mặt như văn công đóng
kịch nữa, đứa nào không sạch thì phê bình, nghe chưa?... Thằng Tnú cũng đi rửa
chân đi. Mày có nhớ cái máng nước ở chỗ nào không?... Nhớ à, được! Tưởng quên
rồi thì tau đuổi ra rừng, không cho ở làng nữa đâu!
Nói vậy nhưng ông cụ vẫn bảo Tnú đưa ba lô và tôm-xông cho ông, rồi thân
hành dẫn anh ra tới máng nước đầu làng. Lũ trẻ con ùa theo rối rít. Có mấy cô gái
Tnú nhớ mặt nhưng không kịp nhớ ra tên, đang lấy nước vào những ống bương
dài, vác ống đứng tránh ra một bên, nhường vòi nước cho anh. Vừa rửa sạch ở
suối nhỏ rồi, nhưng Tnú vẫn rửa lại. Anh cởi áo ra để cho vòi nước lạnh ngắt của
làng mình giội lên đầu, lên lưng, lên ngực như những ngày xưa, cũng chính ở vòi
nước này đây, trên tấm đá bằng đã vẹt hẳn một bên vì ông cụ Mết vẫn ra mài dao
ở đây.
Ông cụ Mết đứng lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú. Những vết thương xưa vẫn
còn ngang dọc trên tấm lưng ấy, đã thành sẹo tím. Từ đôi mắt ông cụ lăn ra hai
giọt nước mắt lớn, ông lén trở tay chùi một cách vội vã. Tnú không kịp nhìn thấy.
Còn lũ trẻ thì ngơ ngác sửng sốt...
Từ các nhà đã quyện lên những sợi khói tím thẫm.
---------------------------------------------------------
(1) Xà nu: một loại cây tương tự như cây thông mọc rất nhiều ở Công Tum, nhựa
và gỗ xà nu đều rất quý.
(2) Pom chu: có nơi gọi là cây chuối nước hay giong riềng, củ có nhiều bột.
Bữa cơm tối ở nhà cụ Mết, ngoài món canh tàu môn bạc hà nấu lạt trong ống nứa,
còn có thêm mấy con cá chua. Đó là món đặc biệt cụ Mết đãi người đi xa về. Tnú
mở ống lương khô, xúc cho ông cụ một muỗng muối. Ông cụ bảo:
- Tau cũng còn nửa lon muối của huyện thưởng cho con Dít kỳ ngày nó đi đại
hội chiến sỹ thi đua, về chia đều cho mỗi bếp một phần. Nhưng cái đó để dành cho
người đau. Còn cái này mày cho thì tau ăn.
Ông cụ không nêm muối vào canh. Ông chia đều cho mỗi người mấy hạt, họ ăn
sống từng hạt, ngậm rất lâu trong miệng để nghe chất mặn đậm đà tan dần. Cơm
gạo trắng ghế rất nhiều củ pom chu. Ông cụ bưng chén cơm, nói như thanh minh:
- Năm nay làng không đói. Gạo đủ ăn tới mùa suốt. Nhưng phải để dành, dự trữ
mỗi bếp cho được ba năm. Mày đi cách mạng, người chỉ huy cũng dạy mày rồi,
đánh thằng Mỹ phải đánh dài.
Rồi đột ngột, ông cụ hỏi:
- Mười ngón tay mày vẫn cụt thế à? Không mọc ra được nữa à!... Ừ...
Ông cụ đặt chén cơm xuống, giận dữ:
- Nhưng lành hết rồi chứ? ... Được! Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được...
Mày có đi qua chỗ rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sống đấy. Không
có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết
hết rừng xà nu này!... Kìa, ăn đi chớ! Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng
núi này đấy, con ạ...
... Cơm nước xong, từ phía nhà ưng3, có ai đấy đánh lên một hồi mõ dài lại ba
tiếng. Dân làng lũ lượt kéo tới nhà cụ Mết. Các cô gái dụi tắt đuốc ở cầu thang
trước khi bước vào nhà. Cũng có người, các bà cụ, cầm cả cây đuốc còn cháy rực
đi thẳng vào, soi lên mặt Tnú, nhìn đi nhìn lại thật kỹ rồi ném bó đuốc vào bếp,
lửa bốc lên, cháy giần giật. Các ông cụ chưa bước lên cầu thang đã nói oang
oang:
- Thằng Tnú đâu rồi? Cho nó ăn no rồi chớ, ông Mết?
Có tiếng một bà già:
- Bọn đàn ông này, xê ra một chút cho con Dít nó ngồi với chớ. Dít ơi, ngồi đây
con!
Tnú ngẩng nhìn lên, Dít đã ngồi sụp xuống trước mặt anh, hai chân xếp về một
bên, đưa tay kéo tấm váy che kín cả gót chân. Tnú bất chợt nghe một luồng lạnh
rân rân ở mặt và ở ngực. Mai! Trước mặt anh là Mai đấy! Anh không ngờ Dít lớn
lên lại giống Mai đến thế. Cái mũi hơi tròn của Dít ngày trước nay đã nhỏ và thẳng
lại, hai hàng lông mày rậm đến che tối cả đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt. Dít
nhìn Tnú bằng đôi mắt ấy rất lâu, trong khi bốn, năm đứa bé, đứa nào cũng tranh
chỗ ngồi gần chị Dít. Rồi chị hỏi Tnú, giọng hơi lạnh lùng:
- Đồng chí về có giấy không?
Tnú không hiểu:
- Giấy gì?
- Giấy cấp trên cho nghỉ phép đó. Không có giấy, trốn về thì không được. Ủy
ban phải bắt thôi.
Tnú cười ồ. Anh định đùa, bảo nhớ làng quá trốn về thăm một bữa, nhưng nhìn
đôi mắt nghiêm khắc của Dít và nghe cái im lặng chờ đợi chung quanh, anh mở túi
áo, lấy một mảnh giấy nhỏ đưa cho chị.
- Báo cáo đồng chí chính trị viên xã đội...
Dít cầm lấy tờ giấy, soi lên ánh lửa. Hàng chục cái đầu chụm lại, mấy đứa bé lắp
bắp đánh vần. Dít đọc rất lâu, đọc đi đọc lại đến ba lần. Cụ Mết hỏi:
- Đúng chớ? Nó có phép chớ?
Dít đưa trả lại giấy cho Tnú. Bây giờ chị mới cười:
- Đúng rồi, có chữ ký của người chỉ huy. Sao anh về có một đêm thôi?
Rồi chị tự trả lời:
- Thôi cũng được. Về một đêm cho làng thấy mặt là được rồi. Bọn em miệng
đứa nào cũng nhắc anh mãi.
Tiếng cười nói im đi một lúc bây giờ lại rộn lên, chật cả căn nhà nhỏ.
- Có chữ ký người chỉ huy đó nghe!
- Tốt lắm rồi!
- Một đêm thôi, mai lại đi rồi, ít quá, tiếc quá!
Tiếng ông cụ Mết ồ ồ át tất cả:
- Hà hà... được!
Ông cụ đẩy hai, ba đứa bé ra, bước tới, ngồi xuống trước bếp lửa, cạnh Tnú. Biết
ông cụ sắp nói, mọi người im lặng. Ông cụ gõ ống điếu lên đầu ông táo, bẻ một
que nứa nhỏ ở sạp, cẩn thận soi cho hết tàn thuốc trong ống điếu,rồi ngẩng lên,
nhìn quanh một lượt. Mọi người đã ngồi đâu vào đấy và lắng chờ. Ông cụ bắt đầu
nói:
- Ông già bà già thì biết rồi. Thanh niên có đứa biết, có đứa chưa rõ. Còn lũ con
nít thì chưa biết - Ông cụ trừng mắt nhìn lũ trẻ, chúng nó cảm thấy cái nghiêm
trang trong lời ông già, đứa nào đứa nấy ngồi im thin thít, mắt dán vào miệng ông
cụ - ... Tnú, anh Tnú của chúng mày về rồi đó. Đó, nó đấy, nó đi Giải phóng quân
đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm, cấp trên cho về một đêm, có chữ ký
người chỉ huy, chị bí thư coi giấy rồi. Nó đấy! Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó
mất sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước
suối làng ta. Đêm nay, tau kể chuyện nó cho làng nghe để mừng nó về thăm làng.
Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà
nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe...
Tất cả đều im lặng. Chỉ có tiếng vòi nước đầu làng lanh tanh trộn lẫn tiếng mưa
đêm gõ đều trên vòm lá cây. Tnú cũng im lặng. Anh nhìn cụ Mết. ánh lửa chập
chờn soi thân hình cụ, làm cho thân hình vạm vỡ ấy trông kỳ ảo như một người
anh hùng trong các bài hát dài suốt đêm Tnú đã nghe từ bé. Rồi anh nhìn Dít. Dít
đã lớn bằng Mai ngày anh ở tù về, gặp lại chỗ gốc cây lớn đầu rừng lách nay đã đổ
xuống ngang đường và du kích đã lợi dụng làm một ác chiến điểm. Dít cũng im
lặng lắng nghe, đôi mắt mở to, bình thản, suy nghĩ.
-... Người già chưa quên, người chết quên rồi thì để cái nhớ lại cho người sống.
Hồi đó thằng Mỹ - Diệm ở khắp rừng núi này. Nó đi trong rừng như con heo. Lính
của nó cắm lưỡi lê là dính máu, cũng đỏ như màu mũ đỏ của nó... Thằng Tnú còn
nhỏ, mới đứng ngang bụng tau đây. Nó lanh như con sóc.
Ừ, người già chưa quên. Người nhỏ cũng chưa quên. Tnú cũng không quên. Anh
thấy rõ ràng một đứa bé đứng tới ngang bụng cụ Mết. Nó đeo một cái xà lét nhỏ
xíu của mẹ nó để lại, trong xà lét trên bỏ rau dưới giấu hai lon gạo trắng, nó luồn
như một con sóc qua các hốc đá cheo leo, nó chạy lon ton trong rừng đi tìm nuôi
anh cán bộ. Một đứa con gái còn nhỏ hơn nó nữa hối hả chạy theo nó. Đứa con gái
vén chiếc váy của mẹ mới dệt nhảy từ mỏm đá này qua mỏm đá khác như một con
chim sáo, vừa nhảy vừa gọi lanh lảnh:
- Tnú, Tnú, chờ với chớ, chờ với chớ!
Tnú thì quay lại trợn mắt:
- Bí mật chớ, Mai! Sao đi đâu cũng tác như con mang thế?
Mai muốn cười, nhưng sợ Tnú, không dám cười...
Ừ, tất cả vẫn chưa xóa nhòa. Chưa cái gì có thể xóa nhòa. Vẫn rõ mồn một. Tnú
này. Cụ Mết này. Anh cán bộ này...
Như vừa hôm qua đây vậy.
-----------------------------------------------------
(3) Nhà ưng: nhà họp chung của làng
Anh cán bộ ở trong rừng lúc bấy giờ là anh Quyết. Từ ngày bọn Mỹ - Diệm tới
rừ
ng núi này, không bữa nào chúng không đi lùng, không đêm nào chó và súng
của chúng không sủa vang cả rừng. Nhưng dân làng Xô man vẫn tự hào: năm năm,
chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này. Lúc đầu thanh
niên đi nuôi và gác cho cán bộ. Mỹ - Diệm biết được, nó bắt thanh niên, nó treo cổ
anh Xút lên cây vả đầu làng.
- Ai nuôi Cộng sản thì coi đó!
Rồi nó cấm thanh niên đi rừng. Bà già, ông già thay thanh niên đi nuôi cán bộ.
Nó lại biết. Nó giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng.
Sau cùng đến lũ trẻ thay ông già, bà già. Trong đám đó, hăng nhất có Tnú và
Mai. Hễ Tnú đi rẫy thì Mai đi với cán bộ. Hễ Mai ở nhà giữ con Dít cho mẹ thì
Tnú đi. Cũng có bữa cả hai đứa cùng đi. Để cán bộ ngủ một mình ngoài rừng ban
đêm, bụng dạ không yên được. Lỡ giặc lùng, ai dẫn cán bộ chạy. Anh Quyết hỏi:
- Các em không sợ giặc bắt à? Nó giết như anh Xút, như bà Nhan đó.
Tnú đang nằm trong lòng anh Quyết, ngồi dậy, tung tấm dồ ra:
- Cụ Mết nói: cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn.
Trong rừng, anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ. Anh chẻ nứa, đập dập ra, ghép
lại thành mấy tấm bảng to bằng bàn tay. Ba anh em đốt khói xà nu xông bảng nứa
đen kịt rồi lấy nhựa cây luông tờ ngheo phết lên một lớp dày, rửa nước cũng
không phai được. Tnú đi ba ngày đường tới núi Ngọc Linh, mang về một xà lét
đầy đá trắng làm phấn. Mai học giỏi hơn Tnú, ba tháng đọc được chữ, viết được
cái ý trong bụng mình muốn, sáu tháng làm được toán hai con số. Tnú học chậm
hơn mà lại hay nổi nóng. Học tới chữ i dài, nó quên mất chữ o thêm cái móc thì
đọc thành chữ a. Có lần thua Mai nó đập bể cái bảng nứa trước mặt Mai và anh
Quyết, bỏ ra ngoài suối ngồi một mình suốt ngày. Anh Quyết ra dỗ, nó không nói.
Mai ra dỗ, nó đòi đánh Mai. Mai cũng ngồi lì đó với nó:
- Tnú không về, tui cũng không về. Về đi, anh Tnú. Mai làm cái bảng khác cho
anh rồi.
Nó cầm một hòn đá, tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng. Anh Quyết phải băng
lại cho nó. Đêm đó, anh ôm nó ngủ trong hốc đá. Anh rủ rỉ:
- Sau này, nếu Mỹ - Diệm giết anh, Tnú phải làm cán bộ thay anh. Không học
chữ sao làm được cán bộ giỏi.
Tnú giả ngủ không nghe. Nó lén chùi nước mắt giàn giụa. Sáng hôm sau, nó gọi
Mai ra sau hốc đá:
- Mai nói cho tôi chữ o có móc là chữ chi đi. Còn chữ chi đứng sau chữ đó nữa,
chữ chi có cái bụng to đó.
Mai quay mặt đi, không dám cười. Nó viết một chữ có cái bụng to lên tấm bảng
nó vừa mới làm cho Tnú. Nó cố nói nhỏ nhưng giọng vẫn lanh lảnh:
- Anh nhớ giỏi lắm, chữ bê đó.
- Ừ, bê... bê... đầu tôi ngu quá!
Tnú hay quên chữ, nhưng đi đường núi thì đầu nó sáng lạ lùng. Nó liên lạc cho
anh Quyết từ xã về huyện. Không bao giờ nó đi đường mòn. Giặc vây các ngả
đường, nó leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt tất cả
các vòng vây. Qua sông, nó không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh
nhất mà bơi ngang, rượt lên trên mặt nước, cưỡi trên thác băng băng như một con
cá kình. Nó nói:
- Qua chỗ nước êm thằng Mỹ - Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ.
Nhưng lần đó, Tnú tới thác sông Đác Năng, vừa cuốn cái thư của anh Quyết gửi
về huyện trong một ngọn lá dong ngậm vào miệng định vượt thác, thì họng súng
của thằng giặc phục kích chĩa vào tai lạnh ngắt. Tnú chỉ kịp nuốt luôn cái thư.
Ba ngày sau, người Xô Man thấy bọn giặc trói chặt Tnú dẫn về làng.
- Đứa nào làm Cộng sản, chỉ thì sống!
Dân làng đứng vây quanh Tnú. Ông cụ Mết đứng bên cạnh Tnú. Tnú chỉ đứng
tới bụng ông cụ. Ông cụ nói tiếng Strá, giọng trầm vang dội:
- Tnú, đừng làm xấu hổ làng Xô Man.
Tnú chỉ trả lời ông cụ bằng một cái nhìn. Ông cụ nói:
- Được!
Lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém.
- Cộng sản đâu, chỉ ra!
Tnú nói nhỏ:
- Cởi trói đã, tay mới chỉ được.
Chúng nó cởi trói một tay, Tnú để bàn tay ấy lên bụng mình:
- Ở đây này.
Lưng Tnú thêm một vết dao nữa. Trên tấm lưng chưa rộng bằng bề ngang cái xà
lét mẹ để lại đó, ứa một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quện lại, tím
thâm như nhựa xà nu.
Khi chúng lại dẫn Tnú đi, Mai ôm nó, khóc nức nở. Nó nói như giận dữ:
- Khóc chi! Đừng! Mai phải học cho giỏi. Tui chết, Mai phải làm cán bộ...
Ba năm sau, Tnú thoát ngục Công Tum trở về, lưng anh đã lành hết vết thương.
Đến gốc cây to đầu rừng lách anh gặp Mai. Mai cầm hai bàn tay anh, giàn giụa
nước mắt. Còn anh ngạc nhiên thấy Mai đã lớn nhanh không ngờ. Mai dẫn anh về
làng. Hôm đó dân làng cũng tụ tập ở nhà cụ Mết như đêm nay đây. Cũng như đêm
nay đây...
Tiếng cụ Mết vang vọng, như dội lại từ cái đêm xa xôi ấy.
- ...Cũng như đêm nay đây, quanh cái bếp này đây. Trời cũng mưa nhỏ lấm tấm
như thế này. Tôi ngồi chỗ này, đúng chỗ này. Thằng Tnú ngồi chỗ này. Còn con
Mai thì ngồi đây, chỗ con Dít ngồi bây giờ... Phải không, Tnú?
Phải rồi! Tất cả cũng in hệt như thế này. Cũng mưa lấm tấm đều đều trên lá vả,
cũng lửa xà nu cháy giần giật, cũng máng nước đầu làng lách tách trong đêm
khuya. Dân làng cũng tụ tập tất cả ở đây để mừng Tnú thoát ngục Công Tum trở
về. Mai cũng ngồi trước mặt Tnú như vậy đấy, cũng đôi mắt có hai hàng lông mày
đậm đến che tối cả tròng đen long lanh, ừ có lẽ đôi mắt đó ít trang nghiêm hơn,
chứa chất nhiều yêu thương hơn, nhưng cũng bình thản như vậy, cứng rắn như vậy
đó. Và cụ Mết không kể chuyện như bây giờ. Cụ chỉ nói:
- Mai, đưa cái giấy của anh Quyết đây. Tnú, đọc lên cho cả làng nghe.
Sau khi Tnú bị bắt ít lâu, anh Quyết chuyển sang huyện Bảy rồi hy sinh ở đó.
Anh bị thương nặng trong một trận phục kích, đưa về trong rừng thì chết. Trước
khi chết, anh gửi cho làng Xô Man bức thư này. Tnú cầm mảnh giấy soi lên ánh
lửa xà nu:
“Em Tnú, em Mai và đồng bào Xô Man. Tui chết. Người còn sống phải chuẩn bị
giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná. Giấu kỹ trong rừng, đừng cho giặc lấy. Sẽ có ngày
dùng tới.
Còn Tnú phải học chữ cho giỏi, thay tui làm cán bộ...”
Ừ, cũng đông đủ như thế này đây. Cụ Tâng, anh Pre, chị Blum, bà Prôi, cụ Leng.
Chỉ khác là còn có Mai. Tnú đọc giấy anh Quyết rồi cả làng đốt đuốc xà nu, theo
cụ Mết, đi dưới mưa. Đêm càng khuya mưa càng nặng hạt, họ vào rừng lấy giáo,
mác, vụ, rựa đã giấu kỹ từ ngày được thư anh Quyết. Tnú đi ba ngày lên núi Ngọc
Linh, nhưng không mang về một xà lét đá trắng làm phấn như ba năm trước. Anh
mang về một gùi nặng đá mài. Núi Ngọc Linh, trên ngọn của nó, có một mỏ đá
mài đủ dùng cho một trăm cuộc khởi nghĩa.
Đêm đêm, làng Xô Man thức, mài vũ khí. Ban ngày thì theo cụ Mết đi phát hết
các rẫy củ, trồng pom chu và sắn, xanh mượt cả núi rừng...
Tin làng Xô Man mài giáo đến tai bọn giặc ở đồn Đác Hà. Giữa mùa suốt lúa,
chúng kéo về một tiểu đội, vừa đúng lúc đứa con trai đầu lòng của Mai và Tnú ra
đời. Cũng thằng chỉ huy năm trước, thằng Dục, nó đội mũ đỏ màu máu. Nó gầm
lên:
- Lại thằng Tnú chứ không ai hết. Con cọp đó mà không giết sớm, nay nó làm
loạn rừng núi này rồi.
Cụ Mết và Tnú dẫn thanh niên lánh vào rừng. Họ không đi đâu xa, chỉ luẩn quẩn
các gốc cây, hốc đá quanh làng, bám sát giặc. Chúng nó đóng lại trong làng bốn
đêm. Ngọn roi của nó không từ một ai. Tiếng kêu khóc dậy cả làng. Thằng Dục
lăm lăm khẩu súng lục:
- Đứa nào ra khỏi làng bắt được bắn chết ngay tại chỗ!
Không ai lọt ra được. Chỉ có con Dít nhỏ lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng
nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Tảng sáng ngày thứ tư thì
chúng bắt được con bé khi nó ở ngoài rừng về. Chúng để con bé đứng giữa sân,
lên đạn tôm-xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua
tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít. Váy nó rách tượt từng mảng. Nó
khóc thét lên, nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó
đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại giật
lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng, bình thản
như đôi mắt chị bí thư bây giờ vậy.
Không làm gì được con bé, thằng Dục dùng đến nước đòn cuối cùng. Nó bắt
Mai.
- Bắt được con cọp cái và cọp con, tất sẽ dụ được cọp đực trở về.
Tnú nghe rõ câu nói đó của thằng Dục. Anh nấp ở gốc cây cạnh máng nước đầu
làng. Từ chỗ ấy nhìn thấy sân làng rõ mồn một. Hai bàn tay anh bíu chặt lấy gốc
cây khi bọn lính gồm mười thằng dẫn Mai ra giữa sân. Mai địu con trên lưng,
thằng bé chưa được một tháng. Ai cũng bảo nó giống Tnú lạ lùng. Không đi Công
Tum mua vải được, Tnú phải xé đôi tấm dồ của mình ra làm tấm choàng cho Mai
địu con. Thằng bé nằm trong tấm choàng ấy, ngủ say trên lưng mẹ.
Thằng Dục hỏi:
- Chồng mày ở đâu, con mọi Cộng sản kia?
Mai xốc lại đứa con trên lưng, giương đôi mắt to nhìn thằng Dục.
- Mày câm à, con chó cái! - Nó quát bọn lính - Đứng ỳ ra đó à!
Một thằng lính to béo nhất liếc mắt nhìn thằng Dục, tay cầm một cây sắt dài
bước tới cạnh Mai. Nó lè lưỡi liếm quanh một lượt, rồi chậm rãi giơ cây sắt lên.
Mai thét to một tiếng. Chị vội tháo tấm địu, vừa kịp lật đứa con ra phía bụng thì
cũng vừa lúc cây sắt giáng xuống sống lưng.
- Thằng Tnú ở đâu, hả?
Cây sắt thứ hai đập vào trước ngực Mai, chị lật đứa bé ra sau lưng. Nó lại đánh
sau lưng, chị lật thằng bé ra trước ngực. Trận mưa cây sắt mỗi lúc một dồn dập.
Không nghe thấy tiếng thét của Mai nữa. Chỉ nghe đứa bé khóc ré lên một tiếng
rồi im bặt. Chỉ còn tiếng cây sắt nện xuống hừ hự.
Tnú bỏ gốc cây của anh. Đó là một cây vả. Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà
không hay. Anh chồm dậy. Một bàn tay níu anh lại. Tiếng cụ Mết nặng trịch:
- Không được, Tnú! Để tau!
Tnú gạt ông cụ ra. Ông cụ nhắc lại:
- Tnú!
Tnú quay lại. Ông cụ không nhìn ra Tnú nữa. Hai con mắt anh bây giờ là hai cục
lửa lớn. Ông cụ buông vai Tnú ra.
Một tiếng thét dữ dội. Tnú đã nhảy xổ vào giữa bọn lính. Anh không biết anh đã
làm gì. Chỉ thấy thằng lính giặc to béo đã nằm ngửa ra sân, thằng Dục tháo chạy
vào nhà ưng. Tiếng lên đạn lách cách quanh anh. Rồi Mai ôm đứa con chúi vào
ngực anh. Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ
con Mai.
- Đồ ăn thịt người, tau đây, Tnú đây!...
Tnú không cứu sống được Mai.
- ...Ừ, Tnú không cứu sống được mẹ con Mai...
Tiếng ông cụ Mết vẫn trầm và nặng. Ông cụ vụng về trở tay lau giọt nước mắt.
Bỗng nhiên ông cụ nói to lên:
- Tnú không cứu sống được vợ, được con. Tối đó, Mai chết. Còn đứa con thì đã
chết rồi. Thằng lính to béo đánh một cây sắt vào ngang bụng nó, lúc mẹ nó ngã
xuống, không kịp che cho nó. Nhớ không, Tnú, mày cũng không cứu sống được
vợ mày. Còn mày thì bị chúng nó bắt, mày chỉ có hai bàn tay trắng, chúng nó trói
mày lại. Còn tau thì lúc đó tau đứng sau gốc cây vả. Tau thấy chúng nó trói mày
bằng dây rừng. Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không.
Tau không ra, tau quay đi vào rừng, tau đi tìm bọn thanh niên. Bọn thanh niên thì
cũng đã đi vào rừng, chúng nó đi tìm giáo mác. Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa?
Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu:
chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!...
Chúng nó trói chặt Tnú bằng dây rừng, khiêng ném vào góc nhà ưng rồi kéo đi
ăn thịt con heo của anh Brôi.
Tnú nằm trong góc nhà. Bóng tối đã dày đặc. Anh suy nghĩ, ngạc nhiên tự thấy
mình rất bình thản: “Đứa con chết rồi. Mai chắc cũng chết rồi. Tnú cũng sắp chết.
Ai sẽ làm cán bộ? Đến khi có lệnh Đảng cho đánh, ai sẽ làm cán bộ lãnh đạo dân
làng Xô Man đánh giặc? Cụ Mết đã già. Được, còn có bọn thanh niên. Rồi con Dít
sẽ lớn lên. Con bé ấy còn vững hơn cả chị nó. Không sao... Chỉ tiếc cho Tnú. Tnú
không sống được tới ngày cầm vũ khí đứng dậy với dân làng...”
Thằng Dục không giết Tnú ngay. Nó đốt một đống lửa ở nhà ưng, lùa tất cả dân
làng tới, cởi trói cho Tnú, rồi nói với mọi người:
- Nghe nói chúng mày đã mài rựa, mài giáo cả rồi, phải không? Được, đứa nào
muốn cầm rựa, cầm giáo thì coi bàn tay thằng Tnú đây!
Nó hất hàm ra hiệu cho thằng lính to béo nhất. Chúng nó đã chuẩn bị sẵn cả.
Thằng lính mở tút se, lấy ra một nhúm giẻ. Giẻ đã tẩm dầu xà nu. Nó quấn giẻ lên
mười đầu ngón tay Tnú. Rồi nó cầm một cây lửa. Nhưng thằng Dục bảo:
- Để đó cho tau!
Nó giật lấy cây lửa.
Tnú không kêu rên một tiếng nào. Anh trợn mắt nhìn thằng Dục. Nó cười sằng
sặc. Nó gí cây lửa lại sát mặt anh:
- Coi kỹ cái mặt thằng Cộng sản muốn cầm vũ khí này xem sao! Số kiếp chúng
mày không phải là số kiếp cầm giáo mác. Bỏ cái mộng cầm giáo mác đi, nghe
không!
Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa
xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.
Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, nhìn trừng trừng.
Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa cháy ở mười đầu ngón tay nữa.
Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi.
Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu rên. Anh Quyết nói: “Người
Cộng sản không thèm kêu van...” Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng
trời ơi! Cháy! Không, Tnú sẽ không kêu! Không!
Tiếng cười giần giật của thằng Dục. Các cụ già chồm dậy. Bọn lính gạt ra. Tiếng
kêu ré của đồng bào. Tiếng chân ai rầm rập quanh nhà ưng. Ai thế?
Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng là tiếng thét vang dội. Tiếp
theo là tiếng “Giết!”. Tiếng chân người đạp trên sàn nhà ưng rào rào. Tiếng bọn
lính kêu thất thanh. Tiếng cụ Mết ồ ồ: “Chém! Chém hết!” Cụ Mết, đúng rồi, cụ
Mết đã đứng đấy, lưỡi mác dài trong tay. Thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ
Mết. Và thanh niên, tất cả thanh niên trong làng, mỗi người một cây rựa sáng
loáng, những cây rựa mài bằng đá mà Tnú mang từ đỉnh núi Ngọc Linh về...
Tiếng anh Brôi nói, trầm tĩnh:
- Tnú! Tnú! Tỉnh dậy chưa? Đây này, chúng tôi giết hết rồi. Cả mười đứa, đây
này! Bằng giáo, bằng mác. Đây này!
Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú. Nhưng đống lửa xà nu giữa nhà vẫn đỏ.
Xác mười tên giặc ngổn ngang quanh đống lửa đỏ.
Cụ Mết chống giáo xuống sàn nhà, tiếng nói vang vang:
- Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông,
người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một
cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông! Đốt lửa lên!
Tiếng chiêng nổi lên...
Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn, suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào
rung động. Và lửa cháy khắp rừng...
Không ai nhận thấy đêm đã khuya. Mưa mỗi lúc một nặng hạt.
Cụ Mết ngừng, nhìn mọi người. Chòm râu trên ngực cụ rung rung:
- Đó, tau kể đã hết. Làng Xô Man cầm giáo từ đêm đó, Tnú cũng ra đi từ đó.
Lành mười ngón tay rồi nó ra đi. Lành thật, ngón nào cũng cụt một đốt, nhưng còn
hai đốt cũng cầm giáo, bắn súng được. Thằng Tnú đi tìm Cách mạng. Nghe nói
bên kia núi Ngọc Linh cũng có thằng Dục, người bên đó cũng nổi dậy rồi. Làng
phái nó đi tìm. Nó đi từ đó đến giờ... Cha mẹ mày, đi lâu thế! Để cho lũ con gái
chúng nó lớn lên chẳng còn thằng thanh niên nào cho nó bắt chồng!... Thôi, tau kể
hết rồi đó. Bây giờ đến mày. Ba năm nay mày đi, mày đã làm xấu hổ cái làng Xô
Man này những gì, kể cho bà con đây nghe nào! Mày đã làm những gì, con! Giết
được mấy thằng Diệm, thằng Mỹ rồi?
Tnú đứng dậy. Anh bước tới trước bếp lửa, đứng lặng hồi lâu. Biết kể gì đây.
Lòng anh tràn ngập thương yêu. Anh nói:
- Cụ Mết! Đồng bào! Tui... Ừ, tui đã gặp thằng Dục rồi...
- Thằng Dục à? Nó ở đâu?
- Nó ở trong đồn.
- Mày giết nó chưa?
- Giết rồi!
- Ừ, mày cho nó ăn cái đạn này chứ?
- Không.
- Sao thế?
Tnú cởi khẩu súng ở vai ra, để xuống một bên.
- Thế này: bữa đó đánh đồn. Lính nó, mình giết hết.
- Sạch à?
- Sạch. Chỉ còn thằng chỉ huy dưới hầm. Kêu nó không lên. Bỏ lựu đạn, nó có
ngách. Người chỉ huy mình hỏi: - Ai xuống? - Tui xuống. Tối lắm. Tui mò thấy
nó. Nó bắn. Tui giật được súng nó. Nó vật tui. Nhưng tui mạnh hơn. Tui tống đầu
gối lên ngực nó. Tui bấm đèn pin lên mặt nó. - Dục, mày có nhớ tau không? - Nó
lắc đầu. - Được, đây này, hai bàn tay tau đây này, nhớ chưa? Tau vẫn cầm được
súng! Mắt nó trắng dã. Tui nói: Này tau có súng đây, tau có cả dao găm đây.
Nhưng tau không giết mày bằng súng, tau không đâm mày bằng dao, nghe chưa?
Dục! Tau giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi!
Dít hỏi, bình thản:
- Chết chớ?
- Chết rồi.
- Nhưng có đúng thằng Dục không?
- Đúng chớ... Chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục.
Cụ Mết cũng đứng dậy, cụ lại đặt bàn tay nặng như sắt lên vai Tnú:
- Được! Hà hà...
Theo tiếng cười của ông cụ, tiếng cười nói xôn xao lại rộn cả căn nhà nhỏ.
Đại bác từ đồn giặc bắn vào đồi xà nu ngoài con nước lớn, nhưng chẳng ai nghe
thấy, tiếng cười tiếng nói át cả tiếng súng.
Tnú lại ra đi. Cụ Mết và Dít đưa anh ra đến rừng xà nu gần nước lớn. Trận đại
bác đêm qua đã đánh ngã bốn năm cây xà nu to. Nhựa ứa ra ở những vết thương
đang đọng lại, lóng lánh nắng hè. Quanh đó vô số những cây con đang mọc lên.
Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê.
Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt, cũng không thấy gì khác
ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời...
1965