Lê Minh Khuê
Chúng
tôi có ba người. Ba cô gái. Chúng tôi ở trong một cái hang dưới chân cao điểm.
Con đường qua trước hang, kéo lên đồi, đi đến đâu đó, xa! Ðường bị đánh lở
loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường không có lá xanh. Chỉ có những
thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to. Một
vài cái thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong đất.
Việc
của chúng tôi là ngồi đây. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất phải lấp
vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Người ta gọi chúng tôi là tổ
trinh sát mặt đường. Cái tên gợi sự khát khao làm nên những sự tích anh hùng.
Do đó, công việc cũng chẳng đơn giản. Chúng tôi bị bom vùi luôn. Có khi bò trên
cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh. Cười thì hàm răng trắng loá trên
khuôn mặt nhem nhuốc. Những lúc đó, chúng tôi gọi nhau là “những con quỉ mắt
đen”.
Đơn vị chăm chúng tôi ra trò. Có gì lại bảo "Ðể cho
bọn trinh sát, chúng nó ở trên đó vắng".
Ðiều
đó cũng dễ hiểu thôi. Ðơn vị thường ra đường vào lúc mặt trời lặn. Và làm việc
có khi suốt đêm.
Còn
chúng tôi thì chạy trên cao điểm cả ban ngày. Mà ban ngày chạy trên cao điểm
không phải chuyện chơi. Thần chết là một tay không thích đùa. Hắn ta lẩn trong
ruột những quả bom. Tôi bây giờ còn một vết thương chưa lành miệng ở đùi. Tất
nhiên, tôi không vào viện quân y. Việc nào cũng có cái thú của nó. Có ở đâu như
thế này không : đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần.
Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng
khắp xung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa.
Nhưng nhất định sẽ nổ... Rồi khi xong việc, quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần
nữa, thở phào, chạy về hang. Bên ngoài nóng trên 30 độ, chui vào hang là sà
ngay đến một thế giới khác. Cái mát lạnh làm toàn thân rung lên đột ngột. Rồi
ngửa cổ uống nước, trong ca hay trong bi đông. Nước suối pha đường. Xong thì nằm
dài trên nền ẩm, lười biếng nheo mắt nghe ca nhạc từ cái đài bán dẫn nhỏ mà lúc
nào cũng có pin đầy đủ. Có thể nghe, có thể nghĩ lung tung... Hình như ta sắp mở
chiến dịch lớn. Ðêm nào xe cũng nườm nượp ngoài đường. Ban đêm chúng tôi được
ngủ. Nhưng mấy đêm nay thì chịu. Ðứa nào cũng leo tót lên trọng điểm, cầm xẻng
xúc, nói vài câu buồn cười với một anh lái xe nào đó. Vui. Chỉ khổ đứa phải trực
máy điện thoại trong hang.
Bây
giờ là buổi trưa. Im ắng lạ. Tôi ngồi dựa vào thành đá và khe khẽ hát. Tôi mê
hát. Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa lời ra mà hát. Lời tôi bịa lộn
xộn và ngớ ngẩn đến tôi cũng ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình.
Tôi
là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc
dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như cái đài hoa loa kèn. Còn mắt
tôi thì các anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!”.
Xa
đến đâu mặc kệ, nhưng tôi thích ngắm mắt tôi trong gương. Nó dài dài, màu nâu,
hay nheo lại như chói nắng.
Không
hiểu sao các anh pháo thủ và lái xe lại hay hỏi thăm tôi. Hỏi thăm hoặc viết những
thư dài gửi đường dây, làm như ở cách xa nhau hàng nghìn cây số, mặc dù có thể
chào nhau hàng ngày. Tôi không săn sóc, vồn vã. Khi bọn bạn gái xúm nhau lại đối
đáp với một anh bộ đội nói giỏi nào đấy, tôi thường đứng ra xa, khoanh tay lại
trước ngực và nhìn đi nơi khác, môi mím chặt. Nhưng chẳng qua tôi điệu thế
thôi. Thực tình trong suy nghĩ của tôi, những người đẹp nhất, thông minh, can đảm
và cao thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ.
Tôi
không nói cho ai điều đó. Nhưng các anh qua đường này hay thăm hỏi tôi một cách
trân trọng, thân mến.
-
Mày hát hay, người cũng tạm, lại phá bom như quỷ! - Bạn bè tôi giải thích. Tất
nhiên, điều đó chẳng chính xác.
Bên
ngoài vẫn im ắng. Từ mười giờ sáng đến giờ, máy bay không bay qua cao điểm. Bom
chỉ bỏ ở mạn trong, nghe âm âm. Chính cái âm thanh trầm trầm có vẻ thanh mảnh ấy
bay đến, sự im lặng ở đây lại căng chùng, như báo hiệu một cái gì dữ dội. Nắng
rất gắt. Gió khô. Nhưng trong hang mắt.
Nho
đang thêu gối. Mỗi đứa một ý thích riêng. Nho thêu. Còn chị Thao thì chép bài
hát vào quyển sổ nhỏ để trên đùi. Hai người đang nói chuyện bình thường, tôi
không nghe từ đầu. Tôi bỗng chú ý lắng tai:
-
Bao giờ thì xong nhỉ! - Nho hỏi.
-
Cái gì xong? - Chị Thao không ngẩng lên, nhưng giọng thì tỏ vẻ ngạc nhiên.
Nho
ngáp. Rồi im. Tôi biết nó nói gì rồi. Nó sẽ bảo: xong chiến tranh, nó sẽ xin
vào một nhà máy thủy điện lớn. Nó làm thợ hàn, sẽ trở thành cầu thủ bóng chuyền
của nhà máy. Nó sẽ đập thật giỏi. Và viết đâu sẽ được người ta tuyển vào đội
bóng chuyền miền bắc.
Còn
chị Thao thì muốn làm y sĩ. Chồng chị sẽ là một anh bộ đội đeo quân hàm đại uý,
hay đi xa và có râu quai nón. Chị không thích sống cạnh chồng hàng ngày, vì như
thế, tình yêu sẽ chóng vô vị.
Tôi
cũng hay nói những dự định của tôi. Ước muốn nhiều. Nhưng tôi vẫn chưa rõ mình
sẽ chọn cái gì là chủ yếu. Trở thành kỹ sư kiến trúc? Rất hay! Thuyết minh
trong rạp chiếu bóng của thiếu nhi, lái xe gấu ở cảng, hay là hát trong đội đồng
ca trên một công trường xây dựng...! Tất cả, đều là hạnh phúc. Tôi sẽ hăng say
và sáng tạo, như những ngày này, trên cao điểm của chúng tôi, nơi ra đời những
ước mơ và khao khát.
Nhưng mà, những cái đó dành cho sau này. Sau chiến tranh.
Khi con đường chúng tôi bảo vệ đây sẽ rải nhựa phằng lì. Ðiện sẽ dăng dây vào rừng
sâu và những nhà máy gỗ sẽ đêm ngày không ngủ... Ba chúng tôi đều hiểu như vậy.
Hiểu và tin với một niềm tin mãnh liệt.
Cái
gối trên tay Nho nhỏ nhắn, màu trắng. Nho thêu những bông hoa cẩu thả và lòe loẹt.
Những đường viền to như dây thừng. Có ai chê, Nho phớt tỉnh, tay cứ đưa trên
mũi kim như không có gì xảy ra. Khi người ta chê lắm, Nho mím môi, rứt chỉ bằng
hai hàm răng đều đặn, giọng cao vút lên:
-
A, cho nó nổi!
Nho
hơi đặc biệt. Vừa thuần hậu, vui vẻ, vừa lì bướng. Hai cái đó không mâu thuẫn
mà bổ sung cho nhau, khiến Nho có một đặc tính khá hiếm hơi. Nho sống với tôi từ
ngày mới lên cao điểm này. Dạo đó, cái gì cũng buồn cười. Tôi ngạc nhiên khi
người ta bảo tôi đi gánh đất.
-
Thanh niên xung phong như thế này à? Gánh đất? ( Tôi không tưởng tượng thế.
Thanh niên xung phong phải vác súng kia, đi rầm rộ dưới những cánh rừng không
trăng sao. Nói với nhau phải mạnh và gọn như những câu khẩu hiệu...).
Nhưng
cũng đi gánh đất. Rồi quen dần.
Nhiều
bữa cơm không có canh, bọn con gái lấy nước uống chan vào cơm. Chan công khai
và khổ sở đến nỗi bọn con trai phải kêu lên vì thương. Nghe tiếng bom đầu tiên,
có đứa chết giấc, nằm dán xuống đất.
Nhưng
bây giờ quen rồi.
Tôi
đến đơn vị sau Nho. Hôm đó, tôi ngơ ngác đặt cái ba lô lên khúc cây ở sau doanh
trại. Nho ở dưới suối lên. Tóc ướt. Nước đọng từng giọt trong trên trán và trên
mũi. Nước suối chắc là nhiều lắm. Có thể bơi... - tôi nghĩ. Nho đứng lại, một
giây thôi, rồi lừ lừ lại gần tôi, tay vặn cái khăn mặt ướt. Nó hất đầu một cái
rồi lướt đôi mắt khinh mạn nhìn từ đỉnh đầu xuống đôi giày đầy bùn tôi đang ra
sức cọ xát vào nhau.
-
Ðơn vị nào bổ sung đến? Quê đâu? Tên gì?
Không
cọ xát đôi giày nữa, tôi đứng theo tư thế nghiêm. Những buổi tập quân sự ở trường,
tôi có học võ. Tôi chống tay vào sườn, giữ tư thế thủ và suy tính: có nên nện
cho nó một quả không? Nện vào đâu trước tiên? Nếu nó nện lại, tôi sẽ bấm huyệt
nhẹ một cái. Huyệt tay.
Nhưng
Nho đã xoay người, đút tay vào túi quần, hất hàm:
-
Vào ban chỉ huy! - Và bước đi trước tôi.
Tất
nhiên chúng tôi chú ý nhiều đến nhau từ đó. Dần quen và thân nhau lúc nào không
biết. Hai đứa đều tròn mười bảy tuổi. Ðứa cũ lên mặt với đứa mới một tí, chả có
gì đáng để bụng. Tôi đâm thích Nho. Cái tính của nó thật tuyệt. Bọn con trai rất
kiềng, nhưng cũng rất dễ trêu.
Cũng
như tôi, Nho thích sống tự do. Hai đứa bảo nhau: “Từ giờ đến già chỉ yêu thôi
chứ không thèm lấy chồng. Lấy chồng khổ lắm. Tã lót, chăn màn, mùn cưa, nước mắm...
thì giờ đâu mà đi chơi nữa. Yêu, anh ta sẽ mang đi xem chiếu bóng, dỗ dành một
tí khí giận dỗi, đọc sách tha hồ...”
Nho
có một anh kỹ sư ở nhà máy cơ khí. Anh ta chăm viết thư và hay viết những cái
thư dài, đọc đến mỏi mắt. “Ở Hà Nội, dù sao cũng khá thì giờ hơn ở tiền
phương...”. Anh ta thanh minh. Nho có một cái ảnh lúc lên hai tuổi, anh ta giữ.
Nho mặc quần yếm đen, đội mũ vải rộng vành, cầm một nắm hoa dại, đứng dưới mấy
gốc cải già. Ðã nhiều thư anh ta gửi Nho, tôi được xem. Anh ta viết: “Anh bây
giờ khoẻ mạnh. Thích đá bóng và có hai cánh tay vạm vỡ. Anh nhìn ảnh em năm em
lên hai tuổi và không thể nào hình dung nổi em lúc này. Anh chỉ nghĩ: em đây,
bé nhỏ, cầm hoa trên tay. Anh sẽ bế em đi chơi, mua kẹo cho em và hỏi: “Cháu muốn
đi đâu nữa, chú sẽ bế đi...”.
Ý
nghĩ của anh kỹ sư thật khôi hài. Nhưng chúng tôi không cười khi đọc thư.
Nghiêm trang, chúng tôi nhìn về hướng Bắc. Ở đó có Hà Nội. Chúng tôi xa đã lâu.
Chúng tôi nhớ thành phố xanh. Chúng tôi quý sự yên tĩnh như kỷ niệm. Ở đây là
nơi mà tuổi trẻ chúng tôi đang lớn lên, nhưng không lúc nào chúng tôi không nhớ
tới Hà Nội.
Ở
Hà Nội, tôi có căn phòng bé, gác hai. Căn nhà của tôi cổ và sâu trong ngõ, có
nhiều cây xanh. Những cây ấy cũng qua bao năm tháng rồi, dây tầm gửi leo đầy.
Ban đêm tôi ngồi lên thành cửa sổ, nhìn ra những mái nhà nhấp nhô, đen thẫm và
hát. Tôi hát say sưa, ầm ĩ. Ở bên cạnh có ông bác sĩ, một người khó ngủ, phải bật
đèn lên, lịch sự gõ vào tường ba cái. Một tháng phải có hai mươi đêm như vậy.
Tôi ngồi chờ giấc ngủ trở lại với ông bác sĩ và hả hê biện hộ cho mình: “Chỉ có
mình mới biết được cái bao la và trong lành của đêm thành phố. Ông bác sĩ tìm
đâu ra được cái này trong những giấc mơ khó khăn kia?...”. Và cũng vì hát say
sưa nên có lần tôi suýt lộn nhào từ cửa sổ xuống đất. Khi lập cập níu tay vào
cánh cửa rồi, tôi mới choáng vàng nhìn xuống cái khoảng sâu thăm thẳm dưới đất.
Ở đó có một vòi nước nhỏ chảy suốt đêm vào bể. Tiếng nước xoắn vào nhau, tạo
cho tôi cái cảm giác nước sắp tràn tới thành cửa sổ. Tôi nhích lên, bỏ hai chân
vào trong một cách thận trọng. Hát tiếp, nhưng hát nhỏ hơn và lắng nghe tiếng
gõ ở tường.
Cả
bàn nhỏ kê ở góc phòng, mẹ tôi thuê đóng cho tôi trong hai buổi trưa. Cứ mỗi lần
làm việc gì liên quan đến giấy mực, tôi lại lôi tất cả sách vở trong ngăn kéo,
trong cặp da, bày bữa bãi lên bàn, lên giường, mặc dù những thứ đó chẳng cần
thiết gì cho việc sắp làm của tôi. Tôi cứ loanh quanh trong đám giấy má đó, mãi
không làm được gì và không thể nào sắp xếp cho gọn được. Bứt rứt đến phát khóc,
tôi gào mẹ thật to. Mẹ bỏ máy khâu, chạy vào, vừa cằn nhằn, vừa để cái nào ra
cái nấy cho tôi. Bà nguyền rủa, không cương quyết lắm: “Con gái gì cái của mày.
Lấy chồng rồi mà no đòn... No đòn...!”. Vì thế nên ngay lúc ở nhà tôi đã thề là
không lấy chồng...
-
Thế nào, chuẩn bị thôi chứ?
-
Cái gì? - Tôi giật mình. Từ nãy đến giờ tôi vẫn hát. Hát và nghĩ vớ vẩn.
Nho
cuộn tròn cái gối, cất nhanh vào túi. Chị Thao nhìn ra cửa hang. Quả thật, máy
bay trinh sát. Cuộc sống ở đây đã dạy cho chúng tôi thế nào là sự im lặng. Sự
im lặng từ sáng đến giờ không bình thường. Cái không bình thường đó đang đến.
Tiếng máy bay trinh sát rè rè. Phản lực gầm gào lao theo sau. Hai thứ tiếng đó
trộn lẫn vào nhau, rót vào tai con người một cảm giác khó chịu và căng thẳng.
-
Sắp đấy! - Nho quay lưng lại chúng tôi, chụp cái mũ sắt lên đầu. Chị Thao móc
bánh bích quy trong túi, thong thả nhai. Những khi biết rằng cái sắp tới sẽ
không êm ả thì chị tỏ ra bình tĩnh đến phát bực. Nhưng thấy máu, thấy vắt là chị
nhắm mắt lại, mặt tái mét, áo lót của chị cái nào, cũng thêu chỉ màu. Chị lại
hay tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm. Nhưng trong công việc, ai
cũng gờm chị: cương quyết, táo bạo.
Những
cái xảy ra hàng ngày: máy bay rít, bom nổ. Nổ trên cao điểm, cách cái hang này
khoảng 300 mét. Ðất dưới chân chúng tôi rung. Mấy cái khăn mặt mắc ở dây cũng
rung. Tất cả, cứ như lên cơn sốt. Khói lên, và cửa hang bị che lấp. Không thấy
mây và bầu trời đâu nữa.
Chị
Thao cầm cái thước trên tay tôi, nuốt nốt miếng bánh bích quy ngon lành:
-
Ðịnh ở nhà. Lần này nó bỏ ít, hai đứa đi cũng đủ.
Kéo
tay áo Nho, vác xẻng lên vai và đi ra cửa.
Tôi
không cãi chị. Quyền hạn phân công là ở chị. Thời gian bắt đầu căng lên. Trí
não tôi cũng không thua. Những gì đã qua, những gì sắp tới... không đáng kể nữa.
Có gì lý thú đâu, nếu các bạn tôi không quay về? Ðiện thoại réo. Ðại đội trưởng
hỏi tình hình. Tôi nói như gắt vào máy:
-
Trinh sát chưa về!
Không
hiểu vì sao mình gắt nữa. Lại một đợt bom. Khói vào hang. Tôi ho sặc sụa và tức
ngực. Cao điểm bây giờ thật vắng. Chỉ có Nho và chị Thao. Và bom. Và tôi ngồi dậy.
Và cao xạ đặt bên kia quả đồi. Cao xạ đang bắn. Tiếng súng ở dưới đất lên quả
là có hiệu lực. Không gì cô đơn và khiếp sợ hơn khi bom gào thét chung quanh mà
không nghe một tiếng trả lời nào dưới đất. Dù chỉ một tiếng súng trường thôi,
con người cũng thấy mênh mông bên mình một sự che chở đồng tình. Cảm giác đó
cũng giống như thấy mình có một khả năng tự vệ rất vững vậy... Sốt ruột, tôi chạy
ra ngoài một tí. Không thấy gì ngoài khói bom. Tôi lo. Ðột nhiên cao điểm bên cạnh
vang lên dồn dập tiếng 12 ly 7. Hay quá, tiểu đoàn công binh đấy. Họ chỉ viện
cho các anh cao xạ, cho chúng tôi. Bỗng dưng tôi muốn là toáng lên vì thích
thú. Xung quanh cao điểm vắng vẻ này có bao nhiêu là người. Các anh cao xạ,
thông tin và công binh đều rất mến chúng tôi. Chỉ cần chúng tôi bắn một phát
súng báo hiệu yêu cầu giúp đỡ là họ sẽ chạy đến ngay.
Nửa
tiếng đồng hồ sau, chị Thao chui vào hang. Bình thản, mệt lả và cáu kỉnh, chị
không nhìn tôi:
-
Hơn nghìn khối!
Rồi
ngồi xuống, uống nước trong bi đông. Nước nhỏ từ cằm xuống ao, liên tiếp như những
giọt mưa. Tôi quay điện về đơn vị. Ðại đội trưởng bảo?
-
Thế à, cảm ơn các bạn!
Ðại
đội trưởng rất hay dùng những từ tế nhị như “cảm ơn”, “xin lỗi”, “chúc may mắn”.
Anh trẻ, người gầy, hay đau khớp, hay làm ca dao cho báo tường. Nhà đâu như cuối
phố Lò Ðúc.
Nho vừa tắm ở suối lên. Khúc suối đó cũng hay có bom nổ
chậm. Cứ quần áo ướt, Nho ngồi, đòi ăn kẹo. Tôi móc trong túi, may còn hai cái
kẹo chanh, dính đầy cát, chảy nước:
-
Bốn quả nổ chậm, ít thôi.
Nho
chống tay về đằng sau, ngả hẳn người ra. Cái cổ tròn và những chiếc cúc áo nhỏ
nhắn. Tôi muốn bế nó lên tay. Trông nó nhẹ, mát mẻ như một khe kem trắng. Ðại đội
trưởng hỏi chúng tôi có cần người không. Tôi bảo không. Như mọi lần, chúng tôi
sẽ giải quyết hết.
-
Hay lắm, cảm ơn các bạn! - Ðại đội trưởng lại cảm ơn - Cả đơn vị đang làm đường
cho một trung đoàn tên lửa qua rừng. Ði từ sáng không ngủ. Tôi cũng đi bây giờ.
Các bạn cố gắng nhé.
Thế
là tối lại ra đường luôn. Thường xuyên...
Tôi,
một quả bom trên đồi. Nho hai quả dưới lòng đường. Chị Thao, một quả dưới chân
cái hầm Ba-ri-e cũ.
Vắng
lặng đến phát sợ. Cây còn lại xơ xác. Ðất nóng. Khói đen vật vờ từng cụm trong
không trung, che đi những gì từ xa. Các anh cao xạ có nhìn thấy chúng tôi
không? Chắc có, các anh ấy có những cái ống nhòm có thể thu cả trái đất vào tầm
mắt. Tôi đến gần quả bom. Cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tôi
không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi
có thể cứ đàng hoàng mà bước tới.
Quả
bom nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô, một đầu vùi xuống đất. Ðầu này có vẽ
hai vòng tròn màu vàng...
Tôi
dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Ðất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra
hai bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai
người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm.
Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành.
Hoặc
là nóng từ bên trong quả bom. Hoặc là mặt trời nung nóng.
Chị
Thao thổi còi. Như thế là đã hai mươi phút qua. Tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn
xuống cái lỗ đã đào, châm ngòi. Dây mìn dài, cong mềm. Tôi khỏa đất rồi chạy lại
chỗ ẩn nấp của mình.
Hồi còi thứ hai của chị Thao. Tôi nép người vào bức tường
đất, nhìn đồng hồ. Không có gió. Tim tôi cũng đập không rõ. Dường như vật duy
nhất vẫn bình tĩnh, phớt lờ mọi biến động chung quanh là chiếc kim đồng hồ. Nó
chạy, sinh động và nhẹ nhàng, đè lên những con số vĩnh cửu. Còn đằng kia, lửa
đang chui bên trong cái dây mìn, chui vào ruột quả bom…
Quen
rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần. Tôi có nghĩ tới
cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn cái chính: liệu mìn có
nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai? Tôi nghĩ
thế, nghĩ thêm: đứng cẩn thận, mảnh bom ghim vào cánh tay thì khá phiền. Và mồ
hôi thấm vào môi tôi, mằn mặn, cát lạo xạo trong miệng.
Nhưng
quả bom nổ. Một thứ tiếng kỳ quái, đến váng óc. Ngực tôi nhói, mắt cay, mãi mới
mở ra được. Mùi thuốc bom buồn nôn. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo. Đất rơi lộp bộp,
tan đi âm thầm trong những bụi cây. Mảnh bom xé không khí, lao và rít vô hình
trên đầu.
Tôi phủi áo, căng mắt nhìn qua khói và chạy theo chị
Thao. Muốn xuống chờ Nho để đi về hang, chị Thao phải qua chỗ tôi. Chị cười,
răng trắng, vết sẹo bóng lên, mảnh dù bay trên lưng, chị lao lên trước tôi. Gió
cố tình giật mảnh dù trên lưng chị, nhưng không giật nổi.
Chị
Thao vấp ngã, tôi đỡ chị. Nhưng chị vùng ra, mắt mở to, mờ trắng đi như không
còn sự sống. Sao vậy? Tôi không hiểu. Chị kéo luôn tay tôi, sà xuống mô đất.
Vâng, một mô đất nhỏ, hơi dài, phủ đầy thuốc bom màu xám.
-
Nho, bị thương ở chỗ nào? Bị ở đâu, em?
Chị
nghẹn ngào, không nước mắt. Tôi moi đất bế Nho đặt lên đùi mình. Máu túa ra từ
cánh tay Nho, túa ra, ngấm vào đất. Nó không giống cái que kem trắng của tôi
khi nãy nữa. Da xanh đi, mắt nhắm nghiền, quần áo đầy bụi. Quả bom tung lên và
nổ trên không. Hầm nó nấp bị sập.
Thế
đấy!
Tôi
rửa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp than. Bông băng trắng. Vết thương không
sâu lắm, vào phần mềm. Nhưng vì bom nổ gần, Nho bị choáng. Tôi tiêm cho Nho.
Nho lim dim mắt, dễ chịu, có lẽ không đau lắm. Chị Thao luẩn quẩn bên ngoài, lúng
túng như chẳng biết làm gì mà lại rất cần được làm việc. Chị ấy sợ máu.
-
Gọi điện về đơn vị nhé!
Chị
Thao lại gần khi Nho đã nằm tinh tươm, sạch sẽ trên chiếc giường ghép bằng những
thanh gỗ to.
-
Không chết đâu. Đơn vị đang làm đường kia mà. Việc gì phải khiến cho nhiều người
lo lắng. Ơ, cái bà này! Sao bà cứ cuống quýt lên vậy?
-
Thường thế, người ngoài cảm thấy đau hơn người bị thương mà.
Chị
Thao quay mặt ra cửa hang, lại uống nước trong bi đông. Nho gác một cánh tay
lên mắt. Nó cũng biết bây giờ không nên uống nước. Tôi pha sữa cho nó trong cái
ca sắt.
-
Cho nhiều đường vào. Pha đặc! - Chị Thao bảo.
Uống
sữa xong, Nho ngủ. Máy bay trinh sát vẫn nạo vét sự yên lặng của núi rừng. Chị
thao dựa vào tường, hai tay quàng sau gáy, không nhìn tôi.
-
Hát đi, Phương Ðịnh, mày thích bài gì nhất, hát đi!
Tôi
thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt trận.
Tôi thích dân ca quan hộ mềm mại, dịu dàng. Thích “Ca-chiu-sa” của Hồng quân
Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh...”. Ðó
là dân ca Ý trữ tình giàu có, phải lấy giọng thật trầm. Thích nhiều. Nhưng tôi
không muốn hát lúc này. Tôi đâm cáu với chị Thao, mặc dù, tôi hiểu, những tình
cảm gì đang quay cuồng trong chị. Chị cứ đưa mắt nhìn Nho, lấy tay sửa cái cổ
áo, cái ve áo và tóc nó. Chị không khóc đó thôi, chị không ưa cả nước mắt. Nước
mắt đứa nào chảy trong khi cần phải cứng cỏi của nhau này là bị xem như bằng chứng
của một sự tự nhục mạ.
Không
ai nói với ai, nhưng nhìn nhau, chúng tôi đọc thấy trong mắt nhau điều đó.
Chị
Thao hát: “Ðây Thăng Long, đây Ðông Ðô... Hà Nội ...”. Nhạc sai bét, còn giọng
thì chua, chị không hát trôi chảy được bài nào. Nhưng chị lại có ba quyển sổ
dày, chép bài hát. Rỗi là ngồi chép bài hát. Thậm chí, say mê chép cả những lời
tôi tự bịa ra nữa.
Có
một đám mây kéo ngoài cửa hang. Một đám nữa. Rồi một đám nữa bay qua ngày càng
nhanh. Bầu trời mở rộng trước cửa hang đen đi. Cơn giông đến. Cát bay mù. Gió
quật lên, quật xuống những cành cây khô cháy. Lá bay loạn xạ. Ðột ngột như một
biến đổi bất thường trong tim con người vậy. Ở rừng mùa này thường như thế.
Mưa. Nhưng mưa đá. Lúc đầu tôi không biết. Nhưng rồi có tiếng lanh canh gõ trên
nóc hang. Có cái gì vô cùng sắc xé không khí ra từng mảnh vụn. Gió. Và tôi thấy
đau, ướt ở má.
-
Mưa đá! Cha mẹ ơi! Mưa đá!
Tôi
chạy vào, bỏ trên bàn tay đang xòe ra của Nho mấy viên đá nhỏ. Lại chạy ra, vui
thích cuống cuồng.
Năm
tôi học hết lớp mười, cũng có mưa đá. Ðang đêm, đá đập vào tường, đá cũng kêu
lanh canh. Tôi mở tung cửa, chạy ra hành lang, rồi chạy đến đập cửa từng phòng,
hét toáng lên như một con dở người:
-
Trời ơi, dậy mau! Mưa đá!
Và
rên rỉ một mình:
-
Chỉ có những kẻ ngốc mới nằm yên trên giường lúc này thôi.
Ông
bác sĩ không ngốc tí nào, nhưng ông ta trịnh trọng tuyên bố:
-
Nếu cô còn làm ồn, chúng tôi buộc phải có biện pháp...
Còn
bà giáo ở bên cạnh thì thở dài, thở dài đến nào ruột:
-
Mẹ ơi, không cho con người ta ngủ nữa sao...?
Chỉ
có anh công nhân lái xe dưới nhà là thức trọn cùng tôi cái đêm kỳ diệu đó. Sau
này anh đi bộ đội, thành dũng sĩ diệt xe cơ giới. Anh ta viết thư cho tôi, hay
nhắc đến những giọt mưa đã thời nào và gọi đó là “những kỷ niệm đi qua...”.
Ở
đây, trên cao điểm đầy bom này cũng có mưa đá. Nhưng niềm vui con trẻ của tôi lại
nở tung ra, say sưa, tràn đầy. Chẳng ai có thì giờ mà gắt tôi. Chị Thao đang
lúi húi hốt cái gì dưới đất. Chắc là đá. Còn Nho thì nhổm dậy, môi hé mở:
-
Nào, mày cho tao mấy viên nữa.
Nhưng
tạnh mất rồi. Tạnh rất nhanh như khi mưa đến. Sao chóng thế? Tôi bỗng thẫn thờ,
tiếc không nói nổi. Rõ ràng tôi không tiếc những viên đá. Mưa xong thì tạnh
thôi. Mà tôi nhớ một cái gì đấy, hình như mẹ tôi, cái cửa sổ, hoặc những ngôi
sao to trên bầu trời thành phố. Phải, có thể những cái đó... Hoặc là cây, hoặc
là cái vòm tròn của nhà hát, hoặc bà bán kem đẩy cái xe chở đầy thùng kem, trẻ
con háo hức bâu xung quanh. Con đường nhựa ban đêm, sau cơn mưa mùa hạ rộng ra,
dài ra, lấp loáng ánh đèn, trông như một con sông nước đen. Những ngọn điện
trên quảng trường lung linh như những ngôi sao trong câu chuyện cổ tích nói về
những xứ sở thần tiên. Hoa trong công viên. Những quả bóng sút vô tội vạ của bọn
trẻ con trong một góc phố. Tiếng rao của bà bán xôi sáng có cải mủng đội trên đầu...
Chao
ôi, có thể là tất cả những cái đó. Những cái đó ở thiệt xa... Rồi bỗng chốc,
sau một cơn mưa đá, chúng xoáy mạnh như sóng trong tâm trí tôi.
Người
ta bảo chúng tôi là con gái Hà nội, liệu có xa nhà được ba ngày? Nhưng chúng
tôi ở đây, trên cao điểm này đã ba năm. Các anh lái xe và pháo thủ gọi tên từng
đứa trong đơn vị tôi, không nhầm lẫn. Còn chúng tôi, chúng tôi biết anh nào
đang yêu, anh nào có đứa con gái đầu lòng, anh nào can đảm, anh nào hay cáu gắt.
Trong đêm, chúng tôi sửa đường, các anh ấy ném xuống cho chúng tôi thuốc đánh
răng Ngọc Lan, giấy viết thư ướp nước hoa và kẹo chanh. Thường chúng tôi không
biết ai ném xuống vì xe phải qua trọng điểm thật nhanh. Nhưng chúng tôi truyền
nhau:
-
Có đoàn xe ở Hà Nội vào!
Ở
Hà Nội mới có những thứ đó.
Những
thứ đó, ở Hà Nội, chúng tôi không để ý đến. Ở đây, chúng tôi cảm thấy hạnh phúc
khi cầm một tờ giấy thơm mỏng, bỏ vào phong bì, gửi những người còn ở trước
chúng tôi nữa.
-
Nằm xuống! - Chị Thao thét.
Như
bị một quả tống bất ngờ vào bụng, tôi co người lại rồi mới nằm dài ra. Bom!
Hình như nó rơi lộp bộp rồi mới nổ. Mặt đất như một người khổng lồ đang rùng
mình.
Cứ
như có đến hàng ngàn cái máy bay nhào lộn trên đầu. Tôi lết vào hang. Chị Thao
lết vào hang. “Mẹ kiếp, không để cho người ta thở nữa chắc...” - Chị lầu bầu. Mảnh
dẻ, cân đối, tóc xõa trên vai, cái sẹo chìm trong bóng tối, chị đứng, một tay vịn
lên cái dây phơi khăn mặt. Giá có giọng nói tốt, chị đi đóng kịch thì hơn. Dáng
chị lên sân khấu cũng coi được. Nhưng phải cái giọng thì chua đến chối tai. Chị
tự nhận như thế.
-
Ðể máy điện thoại lại gần dây! - Nho ra hiệu.
Tôi
bưng máy lại cho Nho, cầm thước và đi ra với chị Thao.
Chạy
nhiều nên vết thương ở đùi tôi bắt đầu đau. Miễn là đừng khập khiễng. Chị Thao
rất cương quyết. Tất nhiên chị chẳng ngại lên cao điểm một mình.
Rất
nhiều hố bom. Chúng tôi đo đất và hô lên, cộng nhẩm. Chị Thao ghi vào cuốn sổ
trực. Không có bom nổ chậm, nhưng khá nhiều đất. Tổng cộng đến hơn hai nghìn khối.
Bỗng, như có cái gì thúc mạnh vào lưng, chị Thao xô tới, ghì tôi vào ngực chị
và xoài xuống đất. Chớp nhoáng, một núi đất khổng lồ ập xuống chúng tôi. Những
tảng đất ướt lẫn với đất vụn khô đào từ đáy hố bom. Nóng. Có cái gì ghì đầu tôi
xuống. Tôi ngoi ra, chân đạp xuống lấy đà, ngoi lên, ngoi... Thở, cát vào mũi.
Lắc đầu. Ðất rơi rào rào. Chung quanh tôi là một màu xám như chì, nặng nề, cuồn
cuộn khói.
Không
thấy chị Thao đâu. “Chị Thao!” - Tôi ráng sức gào lên. Nhưng cổ tắc nghẹn. Ðất
vào đặc cả miệng. Mẹ kiếp! Tôi khạc nhổ ra một cục đất. Tay tôi chạm vào tóc chị
Thao. Tôi quay phắt lại, rụt tay rồi xô cả người tới dùng hai tay cào đất lên.
Chị Thao mềm nhũn, thở không ra hơi. Chị quàng lấy gáy tôi, đứng lên, loạng choạng.
Nho
nhăn mặt như em bé:
-
Lại thế rồi?
Chị
Thao cười một cách lạ lùng và dần trấn tĩnh:
-
Xúi quẩy tí. Nhưng không việc gì đâu.
Xúi
quẩy gì. Trong người chị có chín vết thương lớn nhỏ rồi. Người Nho năm. Tôi còn
ít hơn, bốn vết. Có một vết ở bụng khá nặng, bị giam vào quân y ba tháng. Còn bị
vùi thế này là thường...
Tôi
nhìn các bạn tôi. Chị Thao xanh lắm. Chị mệt rồi. Nho bưng lại cho chị một ca
nước, đưa ngón tay út bé tạo gẩy những mẩu đất trong tóc chị ra và đột nhiên
triết lý:
-
Chuyện, cao điểm mà lị!
Chị
Thao phì cười, hất đầu lại phía tôi:
-
Lấy số ghi không quên mất.
Tôi
quay máy điện thoại. Chị Thao vội vàng lại bên tôi:
-
Nói rõ tất cả, nhưng bảo rằng trên này vẫn vững.
Không
phải đại đội trưởng ở máy mà là liên lạc đại đội - Một anh chàng hiếu khách, lịch
sự, không hút thuốc lá và không ưa con gái.
-
Ðại đội trưởng đi đâu?
-
Ðang chỉ huy ngoài hiện trường, tên lửa gần qua. Nhưng sắp chiều rồi nhỉ. Ai
cũng không ngủ được. Thế các cậu?
-
Cũng khá mệt. Ðất hơn hai nghìn khối. Còn từ giờ đến tối nữa. Bọn mình vẫn đứng
vững...
-
Nếu gay quá, bắn súng cấp cứu ngay, nghe chưa? Ðơn vị lúc nào cũng để tâm hết
vào các cậu ở trên đó đấy. Xung kích sẽ lên sớm...
Buổi
chiều, chị Thao và tôi phải chạy lên cao điểm ba lần nữa. Phá tám quả bom. Còn
đất thì lên đến ba nghìn hai trăm khối. Lần nào tôi cũng bày chuyện để chị Thao
ở nhà. Nhưng chị láu lắm, khó mà lừa được chị. Chị chạy, thở cứ dồn dập cả lên.
Gân xanh chạy từng dòng nho nhỏ trên thái dương và hai bàn tay chị. Tôi lo chị
gục quá. Còn Nho thì cau mày, mỗi lần chúng tôi về hang, lại đi ra, miệng nhắc
đi nhắc lại:
-
Chị Thao, chị Thao!
Lần
cuối cùng chúng tôi đi như bò về hang. Chị Thao đỡ tôi nằm xuống. Tôi cố mở hai
mi mắt đã nhắm lại, dính như keo và chẳng biết mình muốn cái gì bây giờ.
-
Em buồn ngủ! - Tôi nghe tiếng tôi thoảng qua. Rồi cái mát mẻ của hang đá tràn
ngập trong giấc ngủ của tôi rất nhanh.
Ðồi
xung kích của đơn vị ở chỗ làm đường trong rừng ra, chắc chưa kịp ăn cơm đã chạy
lên cao điểm... Tiếng họ lơ mơ như từ đâu đưa lại. Họ hỏi cái gì đó, chị Thao
trả lời. Họ trêu Nho. Nho cáu, cười. Ai nữa hát nho nhỏ...
Có
một vài sợi tóc của ai chạm vào má tôi. Những tiếng thở ở phía trên, ấm, bao
trùm lấy tôi. Tôi có cảm giác như nằm gọn trong vòng tay của mẹ.
-
Dân Hà Nội đấy!
Tôi
nhận ra tiếng của liên lạc đại đội và tỉnh hẳn. Cậu ta cũng là dân Hà Nội. Bố
là công nhân điện. Mẹ là công nhân may mặc. Ở nhà, cậu ta hay trốn học và hay bị
điểm hai. Có lần cậu ta lăn năm quả bom xuống vực, bắt chúng nó nổ dưới đó cho
khỏi hỏng đường. Cậu ta lịch sự, hiếu khách, không hút thuốc lá, và không ưa bọn
con gái chúng tôi. Còn bọn con gái chúng tôi thì chẳng để cho cậu yên.
-
Này, nếu đi chơi với người yêu, thế nào cậu cũng bắt cô ta cắt tóc, mặc com-plê
và đi ủng đen chứ gì?
Cậu
ta lúng túng, gãi đầu, mặt đỏ nhừ:
-
Cái gì cũng phải có trường hợp ngoại lệ, thưa các bà! Vả lại tớ chưa có yêu ai!
Tôi
mở mắt, trong hang đã tối. Ngọn đèn nhỏ đã thắp trên nắp hòm đạn. Ảnh Bác Hồ
treo giữa một tờ giấy trắng khổ rộng. Dưới ảnh Bác có một chiếc vỏ đạn cắm hoa
tươi, bao giờ cũng có hoa. Những cánh hoa dưới ánh đèn không rõ màu, chắc ai vừa
mang lên cho chúng tôi. Ưu tiên mà. Liên lạc đại đội đang nấu nước. Lưng cậu
quay lại phía chúng tôi, vạm vỡ như một tấm phản. Nhưng lúc cậu đứng lên, chỗ
thắt lưng thon lại, như một cầu thủ bóng bàn, linh lợi, nhanh nhẹn và dễ ưa...
Có tiếng rì rầm từ ngoài đường đưa vào. Ðã đến lúc vui nhất rồi đây. Phải ra mới
được. Tôi để hai bàn chân vào tường, đạp mạnh một cái. Hai tay chống đằng sau.
Tôi bật dậy, đau ở đùi, nhói lên. Ðau đầu và các khớp xương. Nhưng cũng dậy được.
Liên lạc đại đội đỡ tôi:
-
Ðiên hả, mệt thì ngủ đi.
-
Ra đường đây.
-
Ra đường! - Cậu cười, môi mỏng, răng rất đều và hai cái lông mày to - Không đi
đâu hết. Trước hết là ngủ.
-
Vớ vẩn, ngủ với nghiếc!
Tôi
lầu bầu và đi ra cửa hang, sờ soạng như một người mù. Không phải chỉ có tôi
“điên” mà Nho cũng đã biến đi đâu mất. Chị thao còn “điên” hơn, tôi nghe tiếng
chị cười rất to trên cao điểm.
Tôi
thấy Nho trong một tốp bộ đội công binh. Nho cho tôi biết là đã sắp nửa đêm, xe
gần chạy. Trong khi tôi ngủ, bom nổ trên cao điểm mấy lần nữa. Nhưng ổn hết, vì
có đội xung kích.
Cao
điểm vẳng xuống tiếng máy ủi đất, tiếng cuốc và tiếng nói cười. Ðôi lúc mìn nổ.
Nổ to hơn tiếng bom. Những ngôi sao trên đầu tôi lay động. Những ngôi sao rất
xa, trong như những giọt nước xanh biếc, rải khắp bầu trời. Mà bầu trời thì
mênh mông làm sao! Tôi chợt nhớ tới bài thơ của một anh trắc thủ pháo binh. Bài
thơ ấy ném xuống đường khi đoàn pháo đi qua. Anh ấy gọi chúng tôi là “những
ngôi sao xa xôi trên cao điểm”. Những ngôi sao rực rỡ, nhưng không hiểu sao lại
“xa xôi”? Chúng tôi tranh luận với nhau và đoán: chắc anh ấy muốn làm văn làm vẻ
tí thôi, chứ sao thì xa đứt đuôi đi rồi... Tôi muốn gặp anh trắc thủ pháo binh
đó quá. Nhưng đoàn pháo đi xa đã lâu... Xe chạy lúc 12 giờ đêm. Máy giòn giã.
Ðường trở mình ồn ào. Anh lái xe trong ca-bin xe thứ năm trông thấy chúng tôi:
-
Này, các cô gái Hà Nội ơi! Nhớ mẹ quá hầy!
-
Hình như anh Thắng ở đoàn Quang Trung.
Nho
thì thầm. Băng ở cánh tay nó trắng. Im lặng, mặt tròn, sống mũi thẳng, nó đứng
sát bên tôi, lại nhẹ nhàng và mát mẻ như một que kem trắng.
-
Chúng nó bảo tao phải vào quân y. Tưởng bở. Tiêm hàng ngày này, thuốc viên này,
cháo thịt nữa, phải ăn cho nhiều nhé... Eo ơi! Cứ y như một cô tiểu thư nhõng
nhẽo nằm trên giường ấy. Tưởng bở mà bắt được tao đi đấy. Ðến phát sợ lên được!
- Nó “xì” một tiếng, làm như là tôi đang chuẩn bị lôi nó lên xe quân y không bằng.
Nó quay sang nói chuyện với một anh công binh về hiện tượng sao băng khi thấy ở
đầu cánh rừng có một giọt tinh tú rơi dài xuống, mất đi nửa chừng.
Tôi
khoanh tay trước ngực, đứng ra xa một tí, không nhìn anh bộ đội mà nhìn một chiếc
xe đang đi tới. Tôi lại điệu thế thôi. Nhưng bảo tôi không điệu sao được? Chẳng
lẽ, ngay lúc này đây, tôi lại chạy đến, nắm tay tất cả các chiến sĩ trên cao điểm
này mà oà lên khóc vì một niềm vui, một niềm hạnh phúc trẻ trung đang trào dậy.
Tôi yêu tất cả mọi người, một tình yêu nồng nàn, khó nói mà có lẽ ai đã đứng
trên cao điểm giữa những phút này như tôi mới hiểu thấu...
Xe
đi dăng hàng, thành khối trên đường, không ánh đèn. Lá nguỵ trang làm mỗi xe to
ra gấp đôi. Ðối với tôi, bao giờ những đoàn xe ấy cũng vô tận, không có sức mà
đếm. Dài. Nhiều. Khổng lồ.
-
Chắc đêm nay các anh ở Hà Nội sẽ vào!
Nho
vẫn thì thầm. Nó cũng đang ở trạng thái như tôi: yêu tất cả. Tình yêu của những
con người trong khói lửa. Tình yêu độ lượng, tha thiết, vô tư mà kẻ độc quyền
có nó trong tim là những người chiến sĩ. Tôi quàng tay lên vai Nho. Chúng tôi
không nói gì với nhau. Tôi siết chặt cái vai nhỏ nhắn và mềm mại của Nho dưới
cánh tay mình. Nó đây, can đảm, dịu hiền, ở cùng thành phố với tôi và cùng đứng
với tôi đêm nay, trên cao điểm đầy bom gần mặt trận. Chúng tôi hiểu nhau và cảm
thấy hạnh phúc.
Năm 1971
(Truyện
ngắn Lê Minh Khuê. Nhà xuất bản Văn học 1994)